mardi 13 novembre 2007

UNESCO không ra quyết-nghị «Hồ-chí-Minh là nhà văn-hoá»

Tài Liệu Sưu Tầm -Chu chi Nam

Tài liệu đưọc viết theo Font Unicode Times New Roman

Nhắc lại một chuyện cũ của năm 90 để trả lời một số e-mail từ Việt-Nam gởi ra.

· Lễ kỷ-niệm 100 năm sanh-nhật của Hồ-chí-Minh do sứ quán Hà-Nội tại Paris thuê phòng của UNESCO và tổ-chức.

Mười năm sau, báo An-ninh thế-giới (số 177) xuất-bản tại Hà-Nội, cho đăng một bài với tựa đề : « Bảo vệ lễ kỷ-niệm 100 năm ngày sinh của Bác Hồ ở trụ sở UNESCO ( Pháp ) ».

Tại sao « bảo vệ » ? Nếu lễ sinh-nhật 100 năm của Hồ-chí-Minh được UNESCO tổ-chức thì phía Hà-Nội không cần phải bảo vệ, bởi vấn-đề an ninh đã được UNESCO đảm trách.

Phải « bảo-vệ » như lời tựa của bài báo viết ( báo công-an ) vì buổi lễ kỷ-niệm ấy đã thật sự không được UNESCO tổ chức, mà hoàn-toàn do Tòa Đại-sứ Hà-Nội tại Paris tự tổ-chức lấy.

Diển tiến sự việc :

Năm 1987 Đại hội đồng UNESCO đã chấp thuận một quyết-nghị tổ chức lễ sinh-nhật của Hồ-chí-Minh như là một danh-nhân thế-giới ( Nhà giải phóng dân-tộc, nhà văn-hóa ). Theo quyết nghị nầy, UNESCO sẽ trợ cấp cho Hà-Nội một ngân khoảng để ấn-hành tranh ảnh, sách báo nói về sự nghiệp văn-hóa và giải-phóng của Hồ-chí-Minh. Riêng UNESCO tại Paris cũng sẽ tổ-chức lễ kỹ-niệm tại trụ sở với sự tham dự của Ban lảnh đạo UNESCO, đại diện chánh-phủ Pháp và thị-xả Paris.

Sở dỉ quyết nghị nầy được thông qua dể-dàng ở Đại-hội-đồng UNESCO vì ông M’BOW, người Phi-Châu đen, làm Tổng-Giám-Đốc UNESCO có xu-hướng thân cộng-sản đã tích cực vận động các thành viên trong UNESCO THÔNG QUA QUYẾT nghị. Ngay khi Quyết-Nghị được phổ biến, cộng đồng người Việt tại Paris liền lập tức hợp nhau lại tìm phương cách phản đối UNESCO.

Một tổ chức thành hình mang danh xưng là Ủy ban tố cáo tội ác Hồ-chí-Minh gồm Tổng-thư-ký và nhiều ủy viên. Ông Nguyễn-văn-Trần được các thân hữu ủy nhiệm làm Tổng-thư-ký với sự hợp tác trợ lực tích cực của các ông Trần-văn-Ngô, Chu-vũ-Hoan, Nguyễn-thừa-Thính, Nghiêm-văn-Thạch, Vũ-Hạ,… Ủy ban tiến hành vận động kiều bào ở khắp nơi : Hoa-Kỳ, Úc, Canada và Âu-Châu viết thơ cho UNESCO phản đối Quyết-Nghị sai lầm kia và vạch trần tội ác của Hồ-chí-Minh từ khi nắm chánh quyền ở Hà-Nội và tội ác của chế độ qua các biến cố cụ thể như vụ Nhân-văn giai-phẩm, cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, vụ thảm sát Mậu thân và ở Miền nam sau 1975 học tập cải tạo, đánh tư sản mại bản, đẩy dân đi kinh tế mới, tổ chức vượt biển thu vàng, thảm nạn vượt biển,….

Đồng thời, Ủy-ban cũng kêu gọi báo chí Việt ngữ hải ngoại sưu tầm tội ác của Hồ-chí-Minh và chế độ Cộng-sản Hà-Nội viết lại và phổ-biến để ngăn chận ảnh-hưởng của Quyết Nghị UNESCO.

Ông Nguyễn-văn-Trần liên hệ với Tướng SIMON, Chủ tịch Ủy ban tương trợ Việt-Miên-Lào và Chủ tịch Hội Cựu Đông-Dương ANAÏ để kêu gọi Hội cựu chiến binh Pháp lên tiếng tố cáo tội ác của Hồ-chí-Minh và Đảng Cộng-Sản đã vi phạm nhơn quyền đối với tù binh Pháp sau chiến tranh Đông-Dương. Ông Nguyễn-văn-Trần liên-hệ với Thị-xả Paris và một số dân biểu, Nghị sỉ Pháp am hiểu về chế độ cộng-sản Hà-Nội để yêu cầu họ đặt « những câu hỏi với Chánh phủ » tại Quốc-hội để có thái độ đối với quyết nghị UNESCO, bởi Pháp là Quốc-gia đón nhận trụ sở UNESCO.

Tình hình thuận lợi :

Bức tường Bá linh sụp đổ kéo theo khối Cộng-sản Đông-Âu đã ảnh hưởng sâu đậm đến nếp suy nghĩ về Cộng-sản của các nước Âu-châu và cã thế-giới. Ông Frédéric Mayor, người Tây-ban-Nha đắc cử Tổng-Giám-Đốc UNESCO. Ông này am hiểu Cộng-Sản nên không có xu-hướng ủng hộ phe khuynh tả trong UNESCO như ông M’BOW trước kia. Kiều bào ở khắp nơi viết thư gởi về UNESCO có đến hàng hai mươi ngàn thư phản đối, yêu cầu hũy bỏ Quyết Nghị. Số thư này được ông Giám Đốc ĐNA ở UNESCO, cứ đến cuối tuần, chuyển qua cho Đại diện Hà-Nội tại UNESCO.

Ông Nguyễn-văn-Trần sưu tầm tài-liệu tại các thư-viện và văn-khố Pháp chứng-minh sự đề cao Hồ-chí-Minh của Hà-Nội như một vĩ-nhân là hoàn-toàn dối trá. Thân phụ của Hồ-chí-Minh vì say rượu phạt đòn làm chết oan một tội nhơn nên bị cách chức chớ hoàn toàn không vì chống Pháp mà từ quan. Sau khi cha bị mất chức, không còn nguồn lợi tức để sinh sống và học hành nên Hồ-chí-Minh bỏ vào Phan-Thiết nhờ Hội Liên-Thành nhận cho làm thầy giáo dạy vở lòng đám trẻ con mà sanh sống qua ngày. Nhưng số học sinh của một tỉnh lẽ lúc bấy giờ không đủ bảo đảm cho Hồ-chí-Minh một mức sống ổn định nên năm sau đó, Hồ-chí-Minh rời Phan-Thiết vào Sài-Gòn để xuống tàu Pháp làm phụ bếp mà có đồng lương đều đặng và khá hơn.

Hồ-chí-Minh xuống tàu Pháp tại bến Nhà-Rồng ở Sài Gòn hoàn-toàn chỉ nhằm tìm kế sinh nhai cho bản thân và gởi tiền về nước giúp phụ thân.

Cũng dịp này, Hồ-chí-Minh biết có trường thuộc địa đào tạo công chức hành-chánh cho chánh quyền thuộc địa nên vội làm đơn xin vào học để mong sau nầy « giúp ích nhà nước Pháp » . Đơn xin bị từ chối, vì không đúng theo thủ tục là người xin phải được nhà cầm quyền Pháp ở Việt-Nam giới thiệu.

Qua các văn kiện do Hồ-chí-Minh viết và khai báo ghi nhận Hồ-chí-Minh có nhiều ngày sanh khác nhau. Ngày chết năm 1969 cũng bị Đảng Cộng-Sản thay đổi : Ngài 2 tháng 09 thành ngày 3 tháng 09.

Những chi tiết hộ-tịch nầy đã phơi bày sự thiếu chính xác và sự dối trá đã giúp Ủy Ban Tố cáo tội ác Hồ-chí-Minh thuyết phục UNESCO không thể chấp nhận ngày 19-05 là ngày sinh của Hồ-chí-Minh. Một cơ quan văn-hóa và Khoa học của Liên-hiệp-Quốc không thể chấp nhận sự dối trá được .

Từ đây, UNESCO bắt đầu tin những lời phản-kháng của Cộng đồng người Việt Hải Ngoại và nghi ngờ thành tích của Hồ-chí-Minh là « Nhà văn-hóa ». Bởi không ai hiểu rỏ Hồ-chí-Minh hơn người Việt-Nam và nhứt là người Việt-Nam nạn nhơn của chế độ Hồ-chí-Minh.

Thế là đến trước ngày 19/05/1990, ông Nguyễn-văn-Trần được mời dến UNESCO cùng với Tướng SIMON để UNESCO cho biết Quyết định của họ là không thi hành Quyết-Nghị . UNESCO giải thích là không thể hủy bỏ Quyết Nghị, bởi muốn hủy bỏ phải thông qua Đại-Hội-Đồng, với nhiều thủ tục phiền toái.

Tiếp theo đó, UNESCO thông báo cho Hà-Nội biết quyết-định của UNESCO với những chi tiết như sau :

- UNESCO không tổ chức lễ 100 năm của Hồ-chí-Minh tại Paris và Hà-Nội.

- Cho Tòa Đại sứ Hà-Nội ở Paris mướn một phòng trong trụ sở UNESCO để tự tổ chức lễ Kỹ-niệm ( Hà-Nội muốn thuê 2 phòng, nhưng bị Ủy Ban Tố cáo tội ác Hồ-chí-Minh can thiệp nên sau cùng chỉ mướn được một phòng mà thôi ).

- UNESCO và Chánh quyền Pháp, kể cả Thị-xả Paris không tham dự lễ.

- Ban Tổ chức lễ ( kỹ-niệm 100 năm ) không được lợi dụng để tuyên truyền chánh trị và đề cao « Hồ-chí-Minh là Nhà văn hoá » theo tinh thần Quyết-Nghị.

- Thiệp mời không được in hình Hồ-chí-Minh và không được ghi « lễ sinh nhật HCM là một nhà văn hoá »… mà chỉ ghi mời « tham dự buổi văn nghệ ».

Quyết định không thi hành Quyết Nghị của UNESCO với những ngăn cấm đã được Văn-Chấn, tác giả bài báo của An ninh thế giới, số 177 thừa nhận nguyên văn như sau :

« …Điển hình là một số người Việt Nam lưu vong ở Pháp, Mỹ và một số nước đã tụ tập nhau ở Paris thành lập cái gọi là « Ủy Ban chống tôn vinh Hồ-chí-Minh » ( đúng ra là Ủy Ban Tố cáo tội ác Hồ-chí-Minh ) do các tên Nguyễn-văn-Trần, Nguyễn-thừa-Thính, Chu-vũ-Hoan,…Chúng tích cực vận động một số nhân vật hữu phái trong chánh quyền các nước ký tên vào thư yêu cầu Tổng-thư-ký UNESCO hũy bỏ quyết định kỹ-niệm ngày sinh của Bác. Chúng viết bài cho các báo phản động Việt-Nam xuyên tạc, bôi nhọ cuộc đời Bác…

Đã sắp đến ngày kỹ-niệm, nhưng Ban lảnh đạo UNESCO vẫn chưa dứt khoát lại còn gây sức ép thuyết phục ta đồng-ý tổ chức kỹ-niệm ở bên ngoài trụ sở UNESCO với lý do nhiều ý-kiến phản-đồi,….

Với thái độ kiên quyết của phía ta, lảnh đạo UNESCO không thể bác bỏ, nhưng vì họ bị nhiều sức ép nên đã đề nghị ta chấp nhận một thỏa hiệp : như không treo ảnh Bác trong hội trường, không triển lãm ảnh Bác ở hành lang UNESCO ; trong giấy mời ghi là đến xem văn nghệ,…

Ba ngày trước lễ kỹ-niệm, tình-hình lại không diển ra như ta mong muốn. Tổng thư ký UNESCO mời đại điện phía ta đến ggặp và yêu cầu hoãn lễ kỹ-niệm với lý-do ta không giữ đúng lời hứa vì trong giấy có in hình Bác và ghi : « Nhân kỹ-niệm 100 năm ngày sinh HCM, danh nhân thế giới,… ». Cuối cùng ta trả lời với ông Tổng thư ký là thay đổi giấy mời… Tuy nhiên, ta cho in 100 giấy mời mới (để mời người ngoại quốc ) còn giấy cũ gởi cho Việt-kiều yêu nước - Hội của Hà-Nội ) …

Về phần nội dung buổi lễ, ta có thay đổi chút ít. Đồng chí Đại sứ không đọc bài diển văn dài về Bác mà thay vào đó là Đồng chí Nguyễn-kinh-Tài, Đại sứ bên cạnh UNESCO, đọc bài diển văn ngắn nói về ý nghĩa lễ kỹ-niệm, đọc quyết-định của Đại-hội-đồng UNESCO về kỹ-niệm 100 năm ngày sinh của Bác. Chủ tịch Hội đồng người Việt tại Pháp ( Hội Việt kiều yêu nước ) phát biểu ý kiến về công lao của Bác đối với dân tộc và thế giới ; cuối cùng là chương trình xem văn nghệ do đoàn cải-lương trong nước phục-vụ ». ( An ninh thế giới, số 177, trang 14 ).

Trong phần cuối, Văn-Chấn khoác lác hôm ấy có đến “ 2000 người tham dự, nhờ các võ sĩ ngăn chận những người đến phá ”. Sự thật là hôm ấy có không quá 70 người tham dự lễ do sứ quán Hà Nội tổ chức và hoàn toàn không có ai muốn đến phá và ngăn chận những Việt kiều yêu nước đến tham dự lễ của họ.

Nhận xét :

- Buổi lễ 19/05/1990 hoàn toàn do Tòa Đại sứ Hà-Nội tại Paris tổ chức trong một căn phòng của UNESCO do họ thuê mướn ;

- Không có đại điện của UNESCO và Chánh quyền Pháp đến tham dự ;

- Buổi lễ đã không được thực hiện đúng theo tinh thần Quyết-Nghị “ Hồ-chí-Minh là một danh nhân thế-giới ” mà chỉ là một buổi văn-nghệ bình thường ( Đại sứ Phạm-Bình của Hà-Nội không được quyền đọc diển văn và không được quyền nói về Hồ-chí-Minh như là một danh-nhân ) ;

- Đảng Cộng-Sản và Hà-Nội đã không biết lấy làm xấu hổ về những hành động lật lộng và gian trá của mình đối với một cơ quan văn-hóa Quốc-tế ( vụ tráo trở thiệp mời ) mà lại đề cao đó như là thành tích thắng-lợi .

Điều thiếu xót đáng tiếc của Ủy Ban Tố cáo tội ác Hồ-chí-Minh là đã không quảng bá sâu rộng thành quả tranh đấu là “ UNESCO không thi hành Quyết nghị ”. Bởi nghĩ đã thắng lợi như vậy là đũ rồi !

Do đó mà 10 năm sau, Hà-Nội mới dám lên tiếng khoe thành tích “ bảo vệ ” lễ kỹ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ-chí-Minh.

Nguyễn đông A
(môt thành Viên của Ủy Ban tố cáo tội ác Hồ-chí-Minh)


TỔ CHỨC UNESCO KHÔNG VINH DANH HỒ CHÍ MINH
Trần Gia Phụng


Theo tài liệu được đưa lên Internet vào cuối tháng 5-2005 của tiến sĩ Phan Văn Song, hiện cư ngụ tại Paris, thì vào năm 1987, do sự vận động của nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và những thành phần thiên tả trong UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc), ông Hồ Chí Minh(1890-1969) được đề cử vào “Danh sách danh nhân văn hóa thế giới” của tổ chức UNESCO, nhân dịp kỷ niệm một trăm năm sinh niên nhà chính trị nầy (1990). Lúc đó, Tổng giám đốc UNESCO là ông M’Bow, người Phi Châu.

Quyết định đề cử Hồ Chí Minh vào “Danh sách danh nhân văn hóa thế giới” bị cộng đồng người Việt hải ngoại phản đối khắp nơi trên thế giới. Riêng tại Paris, nơi đặt trụ sở của UNESCO, Uỷ Ban Tố Cáo Tội Ác Hồ Chí Minh được thành lập, do ông Nguyễn Văn Trần làm Tổng thư ký. Uỷ ban nầy đã hoạt động tích cực như sau:

1) Vận động người Việt và báo chí Việt ngữ ở hải ngoại (Bắc Mỹ, Úc Châu, Âu Châu, Nhật Bản) viết thư cho UNESCO vạch trần tội ác của Hồ Chí Minh và chế độ cộng sản trong nước, đồng thời phản đối việc đề cử Hồ Chí Minh vào danh sách danh nhân văn hóa thế giới. Ý kiến phản đối lên đến khoảng 20,000 thư, đều được Giám đốc phụ trách vùng Đông Nam Á của UNESCO chuyển cho Đại diện của Hà Nội tại UNESCO. Ngoài ra, có người còn viết sách tố cáo ông Hồ đã ăn cắp thơ (đạo thơ) của người khác làm thơ của mình trong sách Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù). (Lê Hữu Mục, Hồ Chí Minh không phải là tác giả “Ngục trung nhật ký”, Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Canada, 1990.)

2) Liên lạc và kêu gọi Uỷ Ban Tương Trợ Việt-Miên-Lào và Hội Cựu Chiến Binh Đông Dương lên tiếng tố cáo Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đã vi phạm nhân quyền đối với tù binh Pháp sau chiến tranh Đông Dương. 3) Liên hệ với Thị xã Paris và một số dân biểu, nghị sĩ Pháp để đề nghị họ đưa vấn đề ra trước Quốc hội Pháp, nhắm yêu cầu chính phủ Pháp có ý kiến với UNESCO về đề nghị vinh danh HCM, vì trụ sở của tổ chức nầy đặt tại Paris.

Trong lúc cuộc vận động đang diễn tiến, thì vào cuối thập niên 80, có ba sự kiện quan trọng xảy ra:

1) Trong nội bộ UNESCO, ông tổng thư ký M’Bow, thôi giữ chức tổng giám đốc, và ông Frédéric Mayer, người Tây Ban Nha đắc cử chức Tổng giám đốc. Ông Mayer không ủng hộ nhóm thiên tả, và không ủng hộ việc đề cử Hồ Chí Minh vào “Danh sách danh nhân văn hóa thế giới”.

2) Tại Việt Nam, số người vượt biên càng ngày càng cao. Từ năm 1975 đến năm 1989 (trước thời điểm Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc ra lệnh khóa sổ các trại tỵ nạn, không nhận người vượt biên), số người vượt biên đến được nơi tạm dung lên đến khoảng 900,000 người, không kể số người tử nạn trên đường vượt biên.(theo thống kê do Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đưa ra năm 2000, được nhà báo Giao Chỉ ghi lại trong bài “Lịch sử 30 năm định cư tỵ nạn 1975-2005”, nhật báo Người Việt Online, ngày 1-4-2005.)

3) Các nước cộng sản Đông Âu bắt đầu lung lay và sụp đổ từ cuối năm 1989.

Cuộc vận động của Uỷ Ban Tố Cáo Tội Ác Hồ Chí Minh, phản ứng của Cộng đồng người Việt khắp thế giới, và ba sự kiện trên đây đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến UNESCO và cuối cùng UNESCO quyết định không thi hành việc đề cử Hồ Chí Minh vào “Danh sách danh nhân văn hóa thế giới”. UNESCO cũng thông báo cho nhà cầm quyền Hà Nội biết, đại để như sau:

- UNESCO không tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm sinh niên của Hồ Chí Minh tại Paris, cũng thư tại Hà Nội.

- Thuận cho Tòa Đại sứ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ở Paris thuê một phòng tại trụ sở UNESCO để tự tổ chức, nhưng UNESCO không cử đại diện tham dự lễ.

- Trong buổi lễ, ban Tổ chức không được tuyên truyền rằng UNESCO đã đề cao Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới, không được treo ảnh Hồ Chí Minh trong hội trường.

- Thiệp mời chỉ được ghi là “tham dự buổi văn nghệ”.


Tuy UNESCO quy định như vậy, nhưng theo cung cách cộng sản, tòa Đại sứ CHXHCNVN vẫn lén lút làm giấy mời có nội dung vinh danh Hồ Chí Minh để gởi cho người Việt, còn in 100 giấy mời chính thức đề là “tham dự buổi văn nghệ” để gởi người ngoại quốc, nhắm tránh bị UNESCO khiển trách.

Trong cuộc nói chuyện trước Cộng đồng Việt Nam tại Montreal, vào ngày Chủ nhật 25-4-2004, bác sĩ Nguyễn Ngọc Qùy, một nhà hoạt động chính trị kỳ cựu tại Paris, đã cho biết rằng sau khi UNESCO quyết định như trên, để vớt vát, tòa Đại sứ CHXHCNVN tại Paris đã thuê một phòng tại trụ sở UNESCO ở Paris để tổ chức buổi trình diễn văn nghệ vào ngày 12-5-1989, đúng một tuần lễ trước sinh nhật của Hồ Chí Minh. Trong buổi trình diễn văn nghệ nầy, có khoảng 70 người hiện diện, bao gồm cả ban tổ chức và nhóm “Việt kiều Yêu nước” là tổ chức do CSVN lập ra. UNESCO và Pháp không cử đại diện đến dự. Chỉ có hai nước gởi người đến tham dự là Cambodia và Lào.

Trong buổi trình diễn văn nghệ nầy, ông Đại sứ CHXHCNVN tại Pháp là Phạm Bình không đọc diễn văn, mà chỉ có ông Nguyễn Kinh Tài, đại diện CHXHCNVN tại UNESCO đọc bài viết ngắn về ý nghĩa buổi lễ, ca tụng sự nghiệp của Hồ Chí Minh, nhưng theo đúng tinh thần quyết định sau cùng của UNESCO, là không đề cập gì đến vấn đề danh nhân văn hóa thế giới.

Trong lúc đó, trong khi phí CSVN đang trình diễn văn nghệ, thì phái đoàn của Uỷ Ban Quốc Tế Trần Văn Bá do ông Trần Văn Tòng, Chủ tịch UBQTTVB, cùng với các học giả Olivier Todd, Jean Francois Revel, thành viên sáng lập UBQTTVB và bà Anne Marie Goussard, Tổng thư ký Hội Quốc tế Nhân quyền, đến gặp ban Giám đốc UNESCO để hỏi rõ mục đích và ý nghĩa của buổi sinh hoạt văn nghệ nầy tại một phòng họp của UNESCO.

Đại diện UNESCO xác nhận với phái đoàn Uỷ ban Quốc tế Trần Văn Bá rằng, đây là buổi văn nghệ do Tòa Đại sứ CHXHCNVN tổ chức, chứ không phải là lễ vinh danh Hồ Chí Minh của UNESCO. Sau khi ban Giám đốc UNESCO xác nhận như trên, trong cuộc họp của Uỷ ban Quốc tế Trần Văn Bá tại trung tâm Maubert Mutualité (Paris 5ème) vào lúc 6 giờ chiều cùng ngày 12-5-1989, ông Olivier Todd đã lên diễn đàn tường trình lại cuộc tiếp xúc với Ban Giám đốc UNESCO. Trong khi tường trình, ít nhất ông Olivier Todd đã hai lần nói rõ rằng Ban Giám đốc UNESCO xác nhận rằng UNESCO không tổ chức vinh danh Hồ Chí Minh, và cũng cho biết buổi trình diễn văn nghệ nhân kỷ niệm một trăm năm sinh niên Hồ Chí Minh vào chiều hôm đó, là do sáng kiến của Tòa Đại sứ CHXHCNVN mà thôi.

Sự kiện UNESCO không tổ chức lễ vinh danh Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới là thành quả của những vận động của cộng đồng Việt Nam hải ngoại và nhất là Uỷ Ban Tố Cáo Tội Ác Hồ Chí Minh tại Paris. Điều nầy cho thấy cộng đồng người Việt hải ngoại là một đối lực chính trị quan trọng đối với chế độ cộng sản hiện nay ở trong nước. Chỉ tiếc là sau khi thành công trong việc vận động UNESCO không thi hành việc vinh danh Hồ Chí Minh, cộng đồng người Việt hải ngoại và Uỷ Ban Tố Cáo Tội Ác Hồ Chí Minh không trình thuật toàn bộ nội vụ và kết quả, thật rõ ràng và thật rộng rãi trên khắp thế giới, để tránh việc tuyên truyền mờ ám và đánh lận con đen của CSVN.

Như thế, tổ chức UNESCO chưa bao giờ vinh danh Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới. Đó là sự thật của câu chuyện được các người tham dự tại chỗ kể lại. Nếu ai chưa tin, thì có thể liên lạc thẳng với những người trong cuộc, đã từng chứng kiến tại chỗ việc nầy, hiện còn sống ở Paris để hỏi cho rõ. Ngoài ra, hồ sơ của UNESCO vẫn còn đó, rộng mở cho tất cả những nhà nghiên cứu, kể cả những nhà nghiên cứu của CHXHCNVN. Thời đại nầy là thời đại khoa học kỹ thuật thông tin tiến bộ, mọi dữ kiện đều được ghi nhận cụ thể, nên mọi người có thể sưu tra dễ dàng trong các văn khố, nhất là những nguồn tin không thuộc loại bí mật quốc gia như việc vinh danh một nhà hoạt động chính trị, chẳng cần gì phải để thời hạn lâu ngày mới công bố.

Nói thêm cho rõ: Nếu UNESCO quả thật có vinh danh ông Hồ Chí Minh, thì phải có văn bản vinh danh cụ thể, chứ không phải bằng lời nói suông. Trong trường hợp đó, chắc chắn nhà nước CHXHCNVN sẽ tổ chức lễ tiếp nhận văn bản nầy rất long trọng, chứ không im tiếng như lâu nay, và chắc chắn nhà cầm quyền CHXHCNVN sẽ làm ảnh sao (photocopy) văn bản nầy, công bố lên khắp mạng lưới thông tin toàn cầu để thu phục lòng người khắp trên thế giới. Hơn nữa, ảnh sao nầy sẽ được treo khắp hang cùng ngõ hẻm tại Việt Nam, kể cả bắt treo kèm với hình ông Hồ tại nhà của mỗi người dân. Người Việt Nam còn nhớ rõ, mỗi khi một di tích ở Việt Nam được UNESCO thừa nhận là di sản văn hóa thế giới như Mỹ Sơn (Quảng Nam), cổ thành Huế, Vịnh Hạ Long..., nhà nước CHXHCNVN đã làm lễ đón nhận sắc bằng của UNESCO ồn ào cờ trống suốt cả tháng trời, quảng cáo khắp thế giới, huống gì là chuyện ông Hồ.

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, Canada)


UNESCO’S RESOLUTION ON THE CELEBRATION OF THE BIRTH CENTENARY OF PRESIDENT HO CHI MINH

UNESCO và Hồ Chí Minh
Bùi Tín

TTV: Bài viết dưới đây trích từ cuốn sách San sẻ tình yêu thương, viết riêng cho tuổi trẻ trong và ngoài nước của nhà báo Bùi Tín, sẽ ra mắt bạn đọc tháng 9 này. Đoạn này là trả lời bạn Phương Nam hỏi nhà báo Bùi Tín khi còn ở Úc, nay ông trả lời chung.

- Thế còn việc UNESCO suy tôn Hồ Chí Minh là "Danh nhân Văn hoá Thế giới" thì thế nào ? Người bảo có, người bảo không, sự thật là thế nào? Tôi từng dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội trường Ba đình Hànội vào ngày 19-5-1990, có một số bạn bè quốc tế dự đến từ Liên xô, Trung quốc, Cu-ba, Bắc Triều tiên, Lào, Cam-bốt, Pháp, Anh, Angiêri… Tôi gặp ông A.Patti (người Mỹ, trong tổ chức tình báo OSS từng có mặt ở Việt Bắc và Hànội hồi cách mạng tháng Tám 1945) tại đây; có ông R.Chandra, người Ấn độ, nguyên trước kia là chủ tịch Hội đồng Hoà bình thế giới dự. Không có đại diện nào của UNESCO. Và cũng không ở đâu UNESCO đứng ra tổ chức lễ kỷ niệm cả. Để trả lời bạn Phương Nam hỏi, tôi đã đến hỏi tại trụ sở chính của UNESCO ở Paris. Đầu đuôi là thế này. UNESCO có nếp làm việc: nhân kỷ niệm ngày sinh những nhân vật nổi bật của các nước thành viên vào những năm chẵn thứ một trăm (năm sinh lần thứ 1, 2, 3 , 4 hay 5 trăm năm ) thì các nước gửi đề nghị đến UNESCO, UNESCO ghi nhận, xem xét và khuyến cáo các nước thành viên tham gia và Chủ tịch UNESCO có thể ủng hộ, hỗ trợ các nước ấy nếu cần. Vì đây là tổ chức về giáo dục, khoa học và văn hoá nên người được đề nghị phải có hoạt động nổi bật về 1 trong 3 mặt này. Cuộc họp của Đại hội đồng UNESCO lần thứ 24 từ ngày 20/10 đến 20/11/1987 tại Paris xét thư đề ngày 14-7-1987 của bộ trưởng Võ Đông Giang, chủ tịch UNESCO của Việt nam, thông báo rằng Việt nam sẽ tổ chức trọng thể kỷ niệm ngày sinh lần thứ một trăm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào dịp 19-5-1990 , chủ tịch Hồ Chí Minh còn là "nhà văn hoá xuất săc của Việt nam"; cuộc họp quyết nghị: - ghi nhận (noter) thông báo của Việt nam; - khuyến cáo ( recommander) các nước hội viên tham gia kỷ niệm; - yêu cầu (prier) Ngài Tổng giám đốc UNESCO ủng hộ (soutenir) việc kỷ niệm, nhất là ở Việt nam.

- Cùng trong phiên họp này, UNESCO ghi nhận đề nghị của Liên xô kỷ niệm lần thứ một trăm ngày sinh của "nhà văn và nhà giáo dục lớn" Semionovitch Makarenko ; ghi nhận đề nghị của Cộng hoà liên bang Đức về kỷ niệm lần thứ 500 ngày sinh của nhà "tiên tri cấp tiến" (prédicateur progressiste) Thomas Mùnzer ; ghi nhận đề nghị của Thái lan về kỷ niệm lần thứ 1 trăm ngày sinh của nhà phê bình văn học uyên bác Phya Anuman Rajadhon; và cuối cùng là đề nghị của Thổ nhĩ kỳ (Turquie) về kỷ niệm 4 trăm năm ngày sinh của "nhà kiến trúc kiệt xuất" Sinan, từng xây dựng nhà thờ Hồi giáo kỳ vỹ Suleymaniye giữa thủ đô Istanbul cùng nhiều công trình ở vùng Balkan và các nước Ả-rập, đều vào dịp 1990.

Nhưng sau đó, một số thư từ, kiến nghị, bài báo gửi đến UNESCO phản đối mạnh mẽ quyết định này, suốt cả năm 1988, 1989 và đầu năm 1990, nêu bật sự kiện thuyền nhân và trại cải tạo, của chính những người trong cuộc với phim ảnh kèm theo, nêu rõ bản chất chế độ đàn áp tàn bạo do ông Hồ chí Minh lập nên, một chế độ phi nhân - phản văn hoá. UNESCO còn tiếp hàng chục đoàn đại biểu từ Pháp, Mỹ, Anh chống đối việc UNESCO dính vào một việc không được dư luận tán đồng. Thế là ông chủ tịch UNESCO quyết định lờ đi, không tham gia việc kỷ niệm để bảo toàn uy tín tổ chức quốc tế này. Còn chính phủ Việt nam làm gì thì tuỳ họ. Vì chưa đến cuộc họp sau nên vấn đề này không đưa ra Đại hội đồng UNESCO.

- Trước ngày kỷ niệm 19-5-1990, 2 sự kiện dồn đến. Bức tường Berlin đổ sập; một loạt chế độ cộng sản Đông Âu tan biến. Hànội mất một loạt đồng minh. Tổng giám đốc UNESCO Amadou M’Bow người châu Phi bê bối về tài chính bị thay thế bởi ông Frederico Leillor người Tây ban nha; ông này ra hẳn chủ trương: UNESCO không tổ chức cũng không tham dự một hình thức nào kỷ niệm ông Hồ; ông cũng nói rõ : không có khoản tiền nào của UNESCO để chi cho việc này nữa. Đến ngày kỷ niệm, Sứ quán Việt nam ở Paris vất vả chạy vạy thuê một phòng nhỏ ở trụ sở UNESCO để vớt vát thể diện. Ban quản trị trụ sở UNESCO còn giao hẹn không được treo ảnh và apphích ngoài hành lang, giấy mời chỉ được ghi là dự một tối văn nghệ. Giấy mời của sứ quán in hình trụ sở UNESCO làm nền bị Văn phòng UNESCO phản đối là ‘’không được phép, không nghiêm chỉnh ‘’(incorrect) phải huỷ. Một đoàn múa rối nước từ Hànội sang biểu diễn; cuộc kỷ niệm dự định vài trăm, chỉ có dưới một trăm người Việt của sứ quán và Hội Việt kiều "yêu nước" cùng mươi người của đảng CS Pháp. Đầu đuôi câu chuyện là thế. Cái gọi là "Bác Hồ chúng ta được UNESCO của Liên Hợp Quốc ra nghị quyết tuyên dương, công nhận là anh hùng dân tộc và danh nhân văn hoá thế giới, và UNESCO tổ chức long trọng lễ kỷ niệm" hoá ra là thế . Cần rõ ràng, minh bạch như thế.
http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=comments&sid=1163&tid=70689&mode=nested&order=&thold=


- Tài liệu của Unesco liên quan đến việc CHXHCNVN và các nước XHCN "anh em" đề nghị Unesco vinh danh HCM. Unesco đã không chấp nhận, không chi tiền đài thọ và không đứng ra tổ chức vinh danh HCM nhân dịp "kỷ niệm 100 ngày sinh" của HCM, và ra chỉ thị cấm đoán Sứ quán CHXHCNVN nhân danh l'Unesco "làm việc vinh danh bất chính này" tại trụ sở Unesco, ...: (xem tài liệu trên)

UNESCO, Records of the General Conference, 20 October to 20 November 1987




Địa chỉ Unesco để liên hệ, kiểm tra trực tiếp:
Service des archives et de la gestion des dossiers de l'UNESCO
7, place de Fontenoy, 75352 Paris - France
Tél.: 00 33.1.45.68.19.50/55 ;
E-mail : j.boel@unesco.org ; bpiweb@unesco.org

Horaires d'ouverture :
Jeudi et vendredi de 14h à 18 h sans rendez-vous préalable.
Sur rendez-vous du lundi au vendredi de 9h à 12h30 et de 14h à 18h.
Fermé les jours fériés français
---
Bạn có thể gởi trực tiếp mail đến Unesco để hỏi, đại để như sau:

Cher Monsieur le Directeur de l'Unesco,

Afin d'éclairer la vérité, je vous prie de bien vouloir me faire parvenir la liste des grand-homme culturels reconnus officiellement par l'Unesco depuis sa fondation, ainsi le lien (link) lié à cet article de l'Unesco.

En effet, j'aimerais savoir concrètement la référence de la resolution de l'Unesco, si elle l'existe, qui reconnait officiellement le président Ho Chi Minh comme grand-homme culturel, en précisant que l'Unesco a officiellement organisé, financé des manifestations de son centième anniversière à Paris, au Vietnam et dans certains autres pays en 1990, ... etc.

Veuillez, agréer cher Monsieur le directeur, l'expression de mes salutations distinguées.

signe


Cảm nhận của giới trẻ ngày nay về lãnh tụ Hồ Chí Minh

(phần 2)
2007.06.06
Trà Mi, phóng viên đài RFA
Kính chào quý vị và các bạn đang đến với chuyên mục “Diễn đàn bạn trẻ”, nhịp cầu thảo luận-giao lưu của thanh niên trong và ngoài nước, phát thanh sáng thứ tư hàng tuần.
Bấm vào đây để nghe cuộc hội luận này
Tải xuống để nghe


Ông Hồ Chí Minh, ông Bùi Bằng Đoàn (thân phụ ông Bùi Tín) trưởng ban Thường Trực Quốc Hội và tướng Võ Nguyên Giáp tại lễ phong quân hàm Đại tướng cho ông Giáp - Việt Bắc - 1948. Hình của ông Bùi Tín.
Với đề tài “Cảm nhận của giới trẻ ngày nay về lãnh tụ Hồ Chí Minh” phát sóng kỳ đầu tiên vào hạ tuần tháng năm vừa qua nhân dịp 117 năm kỷ niệm ngày sinh Hồ Chủ tịch, cuộc thảo luận giữa các bạn trẻ trong và ngoài nước bỗng trở thành tranh luận sôi nổi, không chỉ xoay quanh cảm nghĩ về nhà Cách Mạng Hồ Chí Minh, mà còn bàn về cả các sự kiện lịch sử.

Với những tư tưởng khác biệt giữa 3 sinh viên tìm hiểu lịch sử qua sách vở, tư liệu trong nước là Trang ở Bình Thuận, Phương từ Quảng Ngãi, Thanh ở Nghệ An với 2 bạn có điều kiện tiếp cận với các nguồn thông tin đa chiều, tự do, rộng lớn từ thế giới bên ngoài, là Thanh, một thanh niên đã tốt nghiệp đại học hiện đang làm việc tại miền Nam và Hồng, vừa qua Mỹ du học được 1 năm.

Cuộc hội luận tiến triển ra sao? Quan điểm phía nào sẽ dành ưu thế và thuyết phục hơn? Mời quý vị theo dõi tiếp trong chương trình hôm nay:
Trà Mi: Trong những cuộc thảo luận vừa qua, ý kiến của các bạn có rất nhiều sự khác biệt nên chúng ta đã đi khá xa với chủ đề ban đầu nói về “Cảm nghĩ của thanh niên với nhà lãnh đạo Hồ Chí Minh.

Thanh: Nhưng mà chị ơi những cái đó thực chất có liên hệ đến HCM chứ không phải không, tại vì ông Hồ đã mang chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.
Sinh viên Phương: Anh Thanh cho em ngắt lời tí. Em cảm thấy mình đã đi quá xa với chủ đề chị Trà Mi đưa ra ban đầu xung quanh cảm nhận về Chủ tịch HCM. Bạn Hồng đưa ra ý kiến rằng có rất nhiều thông tin nói về bác không tốt, và bạn ấy cũng đồng ý với những nguồn thông tin như vậy.

Còn bọn mình nói rằng mình vẫn luôn xem HCM là một nhân vật vĩ đại và luôn tôn thờ chủ tịch HCM, vị cha già của dân tộc mà bọn mình rất kính yêu. Cuộc thảo luận của mình đã đi quá xa, từ Cải cách ruộng đất đến vượt biên. Nói chung mình đưa ra ý kiến như thế này.
Mình đã yêu chuộng chủ tịch HCM thì mình cảm nhận và học được là HCM là một người sáng suốt, những chính sách của bác thì luôn đúng đắn. Còn việc thực hiện nó có nhiều thiếu sót và sai lầm là do những người cấp dưới người ta thực hiện không đúng. Khi nhận ra sai lầm đó thì đã có những sửa đổi và đã thực hiện tốt hơn.

Thần thoại hoá nhân vật?
Trà Mi: Đó là những ý kiến Trang, Thanh, và Phương đã đưa ra. Trước những ý kiến của các bạn như vậy, mình có một câu hỏi như thế này hiện nay đã xuất hiện nhiều nguồn tin kèm theo những bằng chứng từ những người vốn trước đây rất thân cận với HCM, chứng minh rằng những tài liệu và sử sách viết về nhân vật này tại Việt Nam lâu nay có nhiều điều hư cấu, huyền thoại hoá, thần thoại hoá nhân vật này. Ý kiến của các bạn ra sao?
Các bạn có nghĩ rằng những gì trong sách vở nhà trường ít nhiều mang tính sùng bái cá nhân HCM hay không?
Du sinh Hồng: Con người không có ai hoàn hảo, nhưng những gì viết về HCM đều là hoàn hảo cho nên mình cảm thấy là chuyện đó không thể nào xảy ra. Các bạn nói rằng những gì xảy ra trong cuộc cải cách ruộng đất năm 1954 không hề liên quan đến bác, và những chính sách bác đưa ra đều đúng, thì tại sao lại có rất nhiều người chết trong cuộc cải cách này.

Hiệp định Geneve mà các bạn được học có thật sự đúng sự thật hay không. Sau hiệp định này, bác vẫn để lại người trong miền Nam để có thể lay chuyển cuộc trưng cầu dân ý. Đó có phải là các chính sách của bác đưa ra hay không? Có phải là chính sách nào của bác đưa ra cũng đúng đắn như các bạn nói hay không?

Trà Mi: Mời ý kiến của các bạn khác.
Sinh viên Thanh: Theo mình, tất nhiên khi người ta đã hâm mộ một ai đó rồi thì người ta thường đưa ra ý kiến chủ quan, và tất nhiên là có thần tượng hoá lên một chút, nhưng thần tượng hoá cũng phải dựa trên những điều có thật. Mình nghĩ sách vở nói về bác dĩ nhiên là dựa vào thực tế rồi mới thần tượng hoá lên đôi chút, đôi khi cũng hơi nói quá.
Trà Mi: Và điều này ảnh hưởng đến niềm tin nơi thế hệ trẻ ra sao? Một nhân vật lịch sử, một sự kiện lịch sử mà lại được thần thoại hoá lên như vậy thì còn mang tính xác thực, trung thực của lịch sử hay không? Nó có ảnh hưởng đến lòng tin của các bạn trẻ nhất là đối với các nhân vật lãnh đạo hay không?
Sinh viên Trang: Mình cho rằng những sự thật người ta thần thoại hoá lên thì cũng không quá đáng lắm.

Thanh: Chính sự thần tượng hoá như vậy dẫn đến rất nhiều tai hại. Thứ nhất, mình sẽ không có sự hiểu biết khách quan, không thấy được con người thật. Mình thần thánh hoá thì lấy gì còn sự thật? Sự thật đã bị che mất rồi. Người ta đã nói là phân nửa của sự thật cũng không phải là sự thật.
Cho nên, những điều mình biết trở thành sai. Nó sai mà mình cứ chấp nhận nó một cách mù quáng như vậy mà không hề đặt dấu chấm hỏi thì óc suy luận của mình sẽ ngày càng bị cùn đi. Việc này rất tai hại.

Bạn nghĩ gì về con người, cuộc đời và sự nghiệp của ông Hồ Chí Minh? Hãy gửi đến Ban Việt Ngữ ý kiến của bạn. email: vietweb@rfa.org
Hiểu biết của mình mà mình chỉ biết chấp nhận những cách suy nghĩ của người khác mà không hề có động não thì đó rõ ràng không phải là phương pháp tìm đến chân lý. Một ví dụ nhỏ, trong sách sử ghi lại bác chết ngày 3/9/1969, theo các bạn điều này đúng hay không?
Du sinh Hồng: Mình nghĩ là bác chết ngày 2/9.
Sinh viên Thanh: Ngày bác chết chính xác là 2/9 mà do ngày đó là ngày quốc khánh, ngày vui của dân tộc thì không thể báo một tin buồn cho nên đảng ta mới chủ trương là dấu tin buồn đó lùi lại một ngày sau ngày quốc khánh. Nhiều năm sau, nhà nước ta đã thay đổi lại và công bố ngày mất thật của bác là 2/9.

Nhưng đến năm nào điều đó mới được sửa lại? Cho đến năm 1989 vẫn chưa được sửa lại. Thế có lý do gì mà mãi đến năm 1989 vẫn chưa sửa? Thứ hai, như vậy rõ ràng những gì đảng đưa ra không phải là chính xác.

Điều này khẳng định là đảng có thể thay đổi bất cứ cái gì trong lịch sử, ngay cả ngày chết của lãnh tụ mà vẫn có khả năng sửa được huống chi những cái khác không sửa được? Có thiếu gì những điều khác đảng cũng cho là bất lợi, đảng cũng dấu đi, thế là bây giờ bạn cũng không biết. Bạn có chắc gì không có những điều đó không?

Đảng cộng sản Việt Nam
Sinh viên Phương: Những điều tốt của đảng đảng có ghi trong sách vở, mình có được học. Còn những điều xấu thì mình cũng đều biết hết. Nói chung mình không biết hết, nhưng có biết sơ qua về một số sai lầm của đảng sau 1954 khi đất nước bước qua thời kỳ xã hội chủ nghĩa, và cách mạng thắng lợi sau 1975 nữa.
Mình biết là đảng có mắc một số sai lầm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, những điều đó mình cũng họ được trong sách vở. Thế thì không thể nói là đảng dấu những sai lầm của mình.

Thanh: Thế bây giờ cho mình hỏi một chuyện, theo bạn kinh tế thị trường theo xã hội chủ nghĩa là đúng hay không?
Sinh viên Phương: Nền kinh tế phát triển cần có sự quản lý của nhà nước mà nhà nước đó đang hướng tới xã hội chủ nghĩa. Nếu như nhà nước không quản lý nền kinh tế đó mà để cho nó phát triển thành tư bản thì liệu rằng nền kinh tế đó nó có phát triển không? Tình hình đất nước có ổn định không?
Thanh: Thế nếu bây giờ áp dụng nền kinh tế tập trung thay vì kinh tế thị trường có sai hay không.
Sinh viên Thanh: Bây giờ xã hội đang phát triển, bạn đem cái chế độ quá cũ áp dụng vào hiện tại này thì làm sao phù hợp ?
Thanh: Như vậy theo bạn, bây giờ kinh tế thị trường mới là hướng đi đúng, phải không?
Sinh viên Thanh: Đúng, từ năm 1975-1986 quan liêu bao cấp, người ta đã nhận thấy sai lầm đó và đã chỉnh đốn lại để đi theo con đường hiện tại.
Thanh: Mà theo kinh tế thị trường thì bạn phải chấp nhận có hoạt động của tư nhân, đúng không?
Sinh viên Trang: Chấp nhận.

Chủ nghĩa xã hội
Thanh: Thế thì bao nhiêu năm trên ghế nhà trường học về kinh tế chính trị Mác-Lênin, có bao giờ các bạn thấy trong đó có nhắc tới việc chấp nhận thành phần kinh tế tư nhân trong chế độ xã hội chủ nghĩa không? Sách vở nói rằng khi người vô sản dành được chính quyền thì phải thiết lập giai cấp chuyên chính vô sản, xoá sạch giai cấp bóc lột, chỉ còn lại giai cấp công-nông trong xã hội thôi.

Đó là trụ cột của chủ nghĩa cộng sản: phải đàn áp tất cả giai cấp khác, trong đó giai cấp tư bản là giai cấp bóc lột cần phải xoá bỏ, và mình còn lớn tiếng hô hào là phải đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản cơ mà. Ngay sau 1975 lập tức đánh tư bản, mình không cho hoạt động kinh tế tư nhân cơ mà. Đó không phải là quan điểm của Việt Nam thôi mà đó là chủ nghĩa Mác-Lê.

Sinh viên Trang: Bạn đã hiểu sai về chủ nghĩa xã hội rồi, ở đây không phải là xoá bỏ hay đào mồ chôn giai cấp tư bản.
Thanh: Sai. Bạn nói vậy là nói ngược rồi. Bây giờ bạn cứ coi lại sách vở về chủ nghĩa Mác-Lê, học lại kinh tế chính trị Mác-Lê, chủ nghĩa di vật biện chứng sẽ thấy rõ ràng xây dựng nền chuyên chính vô sản, xoá bỏ giai cấp bóc lột. Và điều đó Việt Nam đã từng thi hành sau 1975 mà.
Sinh viên Thanh: Bây giờ bạn phủ nhận là đảng đưa ra những đường lối đó, bạn cho là sai hay sao?
Thanh: Cái mình phủ nhận ở đây chính là ..
Sinh viên Thanh: Bạn phải khẳng định rõ chế độ tập trung quan liêu bao cấp hồi đó có thoả đáng hay không? Nếu mình vẫn giữ vậy thì nền kinh tế có phát triển như hôm nay không?
Thanh: Vậy tại sao đảng không nhìn thấy cái đó sớm hơn cho dân được nhờ?
Sinh viên Thanh: Sớm hơn thì hoàn cảnh lúc bấy giờ Việt Nam vẫn còn nghèo về điều kiện vật chất.
Thanh: Vô lý. Mình thấy vô lý chỗ này là tại sao ta tiến hành cuộc chiến tranh đó là vì muốn xoá bỏ chủ nghĩa tư bản ở miền Nam. Chính miền Nam lúc đó đã theo chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường, lúc đó tư nhân được quyền hoạt động.

Tại sao ta vô ta phá hết rồi mãi mười mấy năm sau lại quay lại theo kinh tế thị trường? Đó là sự sai lầm hay là phát minh gì đây? Trên thế giới này kinh tế thị trường có phải là cái do cộng sản phát minh không? Chưa bao giờ.

Sinh viên Phương: Mình thừa nhận những ý kiến của bạn rất đúng nhưng việc bạn nói sao không nhận ra sai lầm sớm thì mình đã nói là do hoàn cảnh đất nước mới thoát khỏi chiến tranh, do điểm xuất phát thấp nên chưa nhận ra sai lầm.
Đến 1986 khi đổi mới thì mình đã kịp nhận ra sai lầm và từ đó mình đã đổi mới. Thì bạn phải thừa nhận là những chính sách sau năm 1986 là đổi mới chứ. Bây giờ thực sự nó đang đem lại hiệu quả cho Việt Nam.

Thanh: Mình nghĩ đó không có gì là đổi mới cả, mà cái đó phải nói đúng là để lại như cũ tại vì trước 1975 người ta đang là kinh tế thị trường cơ mà. Mình vô mình phá rồi mình để lại, chứ sao lại gọi là đổi mới!?
Có mới là mới ở ngoài Bắc, cái đó mình không nói. Còn ở miền Nam lúc bấy giờ đang là kinh tế thị trường cơ mà, mình vô mình phá đi rồi giờ để trở lại thì đâu gọi là đổi mới được? Phải gọi là để lại như cũ chứ?!

(Xin mời theo dõi toàn bộ nội dung trong phần âm thanh bên trên)

“Diễn đàn bạn trẻ” sẽ tái ngộ cùng quý vị và các bạn với phần tiếp theo, vào giờ này, sáng thứ tư tuần sau. Mong quý vị nhớ đón nghe. Chương trình rất mong nhận được ý kiến tham luận của bạn nghe đài khắp nơi để Diễn đàn ngày càng phong phú và bổ ích hơn.
Quý vị muốn chia sẻ quan điểm, xin để lại lời nhắn cho chúng tôi qua hộp thư thoại (202) 530 -7775, kèm theo số phone, chúng tôi sẽ liên lạc lại. Từ Việt Nam và các nước khác, xin bấm số 001 trước dãy số (202) 530-7775. Quý thính giả cũng có thể email cho Ban Việt Ngữ qua địa chỉ : vietweb@rfa.org .
Trà Mi kính chào.
Tiếng Việt
© 2007 Radio Free Asia
Các tin, bài liên quan
Nhân vật Hồ Chí Minh theo nhận định của giới trẻ Việt Nam
Tiếng nói và nguyện vọng của giới trẻ Việt Nam
Gửi trang này cho bạn

Cựu đại tá Bùi Tín nói về ông Hồ Chí Minh

2007.05.18
Trà Mi, phóng viên đài RFA
19/5 năm nay đánh dấu 117 năm ngày sinh cố chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh đạo cao nhất của đảng cộng sản Việt Nam. Công luận trong và ngoài nước từ lâu đã xuất hiện hai luồng nhận định khác nhau về ông. Một bên cho rằng cụ Hồ là một anh hùng vĩ đại, còn một bên lại tố cáo ông có tội với dân tộc, gây đau thương cho biết bao nhiêu người.
Bấm vào đây để nghe cuộc phỏng vấn này
Tải xuống để nghe


Ông Bùi Tín, đại tá Quân Đội Nhân Dân hồi năm 1975. Hình của ông Bùi Tín.
Để tìm hiểu thêm về nhân vật lịch sử này, Trà Mi trao đổi với cựu đại tá Bùi Tín, từng là đảng viên với hơn 4 thập niên tham gia Đảng cộng sản và 37 năm góp mặt trong Quân đội Nhân dân. Với các trọng trách đựơc Đảng giao phó như Phó tổng biên tập báo Quân đội nhân dân và báo Nhân Dân, cũng như Tổng Biên tập báo Nhân dân Chủ Nhật, ông Bùi Tín từng có nhiều dịp tiếp xúc, gặp gỡ với Hồ Chủ tịch.

Ngoài ra, do mối quan hệ mật thiết giữa thân phụ của ông với lãnh tụ Hồ Chí Minh, nên ông cũng có cơ hội được biết khá nhiều về cụ Hồ. Ông cũng chính là tác giả của rất nhiều tác phẩm viết về cuộc đời và sự nghiệp của nhà cách mạng nổi tiếng này. Trước tiên, ông Bùi Tín nêu lên nhận xét chung về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cựu đại tá Bùi Tín: Ông Hồ Chí Minh là một nhà chính khách, một nhân vật lịch sử mà hiện nay trong và ngoài nước có những đánh giá trái ngược hẳn nhau.
Một số người ca ngợi ông ta đến mức như thần thánh, như một con người tuyệt đối không bao giờ có sai lầm. Trong khi đó, cũng có những người xem ông ta là một nhân vật tiêu cực và gây ra những tàn phá ghê gớm cho đất nước.

Đạo đức, nhân cách
Trà Mi: Là một người từng sống và làm việc theo lý tưởng HCM, ông nhận xét như thế nào về tư tưởng HCM, về đạo đức, nhân cách của cụ Hồ?
Càng về sau, ông Hồ càng trở thành một nhân vật thực hiện sứ mạng do quốc tế cộng sản giao cho, tức là gây dựng và phát triển phong trào cộng sản ở Việt Nam, Đông Dương, và mở rộng chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á. Con đường ấy, theo tôi bây giờ, đó là con đường sai lầm, đưa đất nước vào tình hình khó khăn sau này.

Cựu đại tá Bùi Tín
Cựu đại tá Bùi Tín: Sự đánh giá của tôi về ông Hồ là cả một quá trình thay đổi khác nhau. Trước đây khi còn ở trong nước thì khác. Dần dần, qua sự so sánh và nghiền ngẫm thì cách nhìn của mình trở nên đúng mức hơn, công bằng và khoa học hơn.
Tôi coi ông ta không phải là thần thánh, chỉ là một con người bình thường như mọi người khác, tức là cũng có ưu điểm và khuyết điểm, có những đóng góp tích cực và tiêu cực. Về tư tưởng, nhiều người cho rằng ông ta không phải là một người yêu nước. Còn tôi, tôi khẳng định ông ta là một nhân vật yêu nước, nhất là thời trẻ của ông.

Theo tôi, khi ông Hồ sang Pháp năm 1911 lúc đầu không phải vì mục đích đi tìm đường cứu nước. Lúc bấy giờ ông ta gặp phải một bi kịch gia đình. Ông cụ là tri huyện Bình Khê vì đánh chết nông dân nên bị đuổi ra khỏi ngành quan lại, tha phương ở phía Nam. Mất chỗ dựa, ông Hồ quyết định ra đi tìm kế sinh nhai và giúp đỡ gia đình.
Nhưng đến khi sang Pháp, khi tiếp xúc với nhóm các ông như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, cụ Phan Chu Trinh, lúc ấy, tôi nghĩ ông ta là người yêu nước, nhất là khi ông ta đứng ra làm tờ báo Những người cùng khổ, bảo vệ những người dân thuộc địa để chống thực dân Pháp, tôi cho rằng hành động này là trên lập trường yêu nước.
Thế nhưng cho đến khi ông sang Maxcơva năm 1924, trở thành nhân vật của đệ tam quốc tế cộng sản, thì tôi nghĩ, lúc ấy ông vẫn là một người yêu nước, nhưng không phải là một người yêu nước theo chủ nghĩa quốc gia, mà theo chủ nghĩa cộng sản.
Càng về sau, ông Hồ càng trở thành một nhân vật thực hiện sứ mạng do quốc tế cộng sản giao cho, tức là gây dựng và phát triển phong trào cộng sản ở Việt Nam, Đông Dương, và mở rộng chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á. Con đường ấy, theo tôi bây giờ, đó là con đường sai lầm, đưa đất nước vào tình hình khó khăn sau này.

Ví dụ như cho đến nay, dân tộc Việt Nam ta còn quá lạc hậu về mọi mặt, từ mức sống, nhân quyền, dân quyền. Tôi nghĩ cái đó thuộc về trách nhiệm của ông Hồ rất lớn, vì đã nhầm lẫn đem một học thuyết từ Liên Xô cũ về áp dụng đến gần nửa thế kỷ nay. Bây giờ, học thuyết này đã đựơc chứng minh bằng thực tế rõ ràng là chủ nghĩa cộng sản, về mặt lý luận, xây dựng một xã hội tốt đẹp không có người bóc lột người chỉ là ảo tưởng thôi.

Chủ nghĩa cộng sản bây giờ, ở ngay nơi cốt lõi của nó là Liên Xô, cũng đã sụp đổ. Ở một loạt các nước Đông Âu, nó cũng hoàn toàn bị tan rã. Tại Việt Nam, theo chủ nghĩa này, một lý luận đựơc ông Hồ nói nhiều nhất là Việt Nam bỏ qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa đến tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.

Trải qua nửa thế kỷ, sau khi ông Hồ mất rồi thì đảng cộng sản mới thay đổi hẳn lại, tức là từ bỏ việc tiêu diệt tư nhân, tư hữu để quay trở lại với kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư bản đến mức quá đáng là những đảng viên từ chỗ theo chủ nghĩa tập thể, bây giờ trở thành những nhà tư sản, có đất, có nhà cửa, có tư hữu bằng con đường tham nhũng chẳng hạn, để cho người dân Việt Nam đến nay có độc lập nhưng vẫn chưa có đựơc tự do của người công dân, chưa có xã hội công dân, chưa có tự do báo chí, tự do bầu cử, tự do tôn giáo..v.v..Tôi nghĩ, đấy là trách nhiệm, là mặt tiêu cực của ông Hồ còn lại, mà chúng ta cần phải nhận ra.

Ông Hồ Chí Minh, ông Bùi Bằng Đoàn (thân phụ ông Bùi Tín) trưởng ban Thường Trực Quốc Hội và tướng Võ Nguyên Giáp tại lễ phong quân hàm Đại tướng cho ông Giáp - Việt Bắc - 1948. Hình của ông Bùi Tín.

Chủ nghĩa sùng bái cá nhân
Trà Mi: Ở Việt Nam lâu nay có phong trào sùng bái cá nhân HCM đến mức gần như là huyền thoại hoá hình ảnh của vị lãnh tụ này. Tại sao lại có tệ sùng bái, mà theo nhiều người, đến mức quá đáng như vậy, thưa ông?
Cựu đại tá Bùi Tín: Đó là theo sùng bái cá nhân của học thuyết chủ nghĩa cộng sản. Trước đây, người ta sùng bái ông Mác, Lênin, Stalin, và đến ông Hồ, xem ông ta là một con người tuyệt đối thánh thiện và không có gì sai lầm cả.

Họ cốt làm việc ấy chỉ để duy trì hình ảnh hợp pháp của đảng cộng sản trong khi ở thế giới người ta đều biết rõ là chủ nghĩa cộng sản và học thuyết Mác-Lê đã tệ hại ra sao. Bây giờ, cả Châu Âu đã ra nghị quyết lên án chủ nghĩa cộng sản hiện thực. Chủ nghĩa cộng sản bị cấm không đựơc truyền bá ở Ba Lan chẳng hạn.

Ở Mỹ không cho những người cộng sản nhập tịch vào nước Mỹ. Tháng 6 tới đây sẽ khánh thành tượng đài kỷ niệm những nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản trên khắp thế giới trong đó có hơn 30 triệu người Nga, 40 triệu người Trung Quốc, cùng các nạn nhân tại Việt Nam của các vụ án chính trị, của Cải cách ruộng đất..v..v.
Cả nhân loại văn minh, khi đã biết rõ chủ nghĩa cộng sản đã đựơc thực hiện và gây tai hoạ như thế nào, người ta còn ví von là nó còn tệ hại hơn chủ nghĩa phát xít nữa cơ mà.

Đâu là sự thật?
Trà Mi: Xung quanh hình ảnh của nhân vật Hồ Chí Minh có rất nhiều huyền thoại cũng như những lời đồn đãi khác nhau khiến cho nhiều người trẻ bối rối không biết đâu là sự thật. Theo kinh nghiệm và sự hiểu biết của ông, ông có những gì muốn chia sẻ với quý thính giả, đặc biệt là thế hệ trẻ?
Cựu đại tá Bùi Tín: Tuổi trẻ bây giờ quan trọng nhất là cần có tư duy độc lập. Tất cả những gì mình tiếp thu đựơc nên sàng lọc qua bộ óc, suy nghĩ của mình xem đúng hay sai. Về việc họ ca ngợi đạo đức HCM, tôi nghĩ tuổi trẻ cần phải biết rõ là ông Hồ trong hoạt động cách mạng đã có sai lầm lớn tức là giả dối nhiều lắm.
Tuổi trẻ bây giờ quan trọng nhất là cần có tư duy độc lập. Tất cả những gì mình tiếp thu đựơc nên sàng lọc qua bộ óc, suy nghĩ của mình xem đúng hay sai. Về việc họ ca ngợi đạo đức HCM, tôi nghĩ tuổi trẻ cần phải biết rõ là ông Hồ trong hoạt động cách mạng đã có sai lầm lớn tức là giả dối nhiều lắm.

Cựu đại tá Bùi Tín
Một ví dụ đơn giản là ông ta tự viết ra quyển sách nói về tiểu sử của mình, ký tên là Trần Dân Tiên. Trong đó viết rằng bác Hồ rất khiêm tốn, không muốn nói gì đến cá nhân của mình cho nên tác giả phải đi tìm hiểu từ những người khác xung quanh để viết về HCM. Ngoài ra, trong đó còn ghi là HCM không có vợ còn, suốt đời chỉ nghĩ đến dân tộc, thế nhưng thật ra, ông ta có nhiều vợ.

Điều này đã đựơc chứng minh đầy đủ như ông ta đã cưới bà Tăng Tuýêt Minh ở Quảng Châu, Trung Quốc, có rõ cả ngày giờ, giấy hôn thú, ảnh và thư từ cơ mà.
Rồi sau này, khi ông về Hà Nội rồi, người ta cũng biết là chính ông Trần Quốc Hoàng đã bố trí cho ông Hồ một cô tên là Nông Thị Xuân, hàng tuần lễ vào gặp ông, và ông Hồ đã có con là anh Nguyễn Tất Trung năm nay đã hơn 50 tuổi. Tất cả những chuyện đó, tôi nghĩ là chúng ta cần phải biết, tuy là chuyện riêng nhưng cũng phải biết để đánh giá.

Những tài liệu cấm lưu hành

Trà Mi: Những điều ông nói có những tài liệu nào xác thực cụ thể, và những tài liệu đó bây giờ đang ở đâu?
Cựu đại tá Bùi Tín: Những tài liệu ấy Hà Nội cấm lưu hành, nhưng hiện nay trong giới nghiên cứu thì người ta biết cả rồi. Nhất là trong những tài liệu đựơc công bố ở Trung Quốc của các học giả ở Hoa Nam đã nói về mối tình và đám cưới giữa ông Hồ và bà Tăng Tuyết Minh. Bà Minh sống đến 94 tuổi.

Trước đó mấy mươi năm, bà còn muốn tìm liên lạc để gặp lại ông Hồ, thế nhưng ông Hồ không đựơc phép và cũng không muốn. Chính ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã ngăn cản chuyện đó. Những chuyện đó, trong giới sử học và trí thức, người ta biết tất cả rồi nhưng vẫn cứ che dấu. Lúc này là lúc cần phải minh bạch rõ ràng để mọi người đựơc biết đựơc đúng sự thật như thế nào.

Trà Mi: Hồi nãy ông có nhắc tới người tác giả ký tên Trần Dân Tiên viết về cuộc đời và nhân cách đạo đức của cụ Hồ cũng chính là HCM. Ông có bằng chứng nào xác thực cho luận điểm này hay không?
Những tài liệu ấy Hà Nội cấm lưu hành, nhưng hiện nay trong giới nghiên cứu thì người ta biết cả rồi. Nhất là trong những tài liệu đựơc công bố ở Trung Quốc của các học giả ở Hoa Nam đã nói về mối tình và đám cưới giữa ông Hồ và bà Tăng Tuyết Minh. Bà Minh sống đến 94 tuổi.

Cựu đại tá Bùi Tín
Cựu đại tá Bùi Tín: Điều này tôi biết từ khi còn ở trong nước. Năm 1990 khi kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông HCM thì chính Viện sử học Việt Nam, chính trên báo Nhân dân, tờ báo của Đảng cộng sản, nói rõ là ông Hồ trong cuộc đời đã dùng đến hơn 30 bí danh khác nhau, trong đó có bí danh Trần Dân Tiên, và khẳng định rõ rằng cuốn “ Những mẫu chuyện về đời sống của chủ tịch HCM” là do chính ông Hồ viết ra.
Cái đó có phải là do ai bịa ra đâu, mà đã chính thức đựơc chế độ cộng sản ở Hà Nội công nhận cơ mà.
Do đó, tôi nghĩ là tuổi trẻ trong nước, nhất là những người nghiên cứu lịch sử, cần phải tìm hiểu cho rõ ràng sự thật, không định kiến, không chửi rủa, nhưng nhận thức cho đúng là có thật chủ nghĩa Mác-Lê là tai hoạ trong hiện thực hay không, cụ Hồ là con người yêu nước mà mang về một học thuyết sai lầm thì nguy hiểm như thế nào.
Đã đến lúc phải tỉnh ngộ mà thay đổi suy nghĩ và từ bỏ nó chứ.

Trà Mi: Xin cảm ơn thời gian ông đã dành cho cuộc phỏng vấn này.

Vừa rồi là quan điểm của cựu đại tá Bùi Tín, cựu đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, người đã trải qua phân nửa quãng đời sống và làm việc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thế còn suy nghĩ và cảm nhận của thế hệ trẻ ngày nay về Hồ Chủ tịch ra sao? Mời quý vị đón nghe cuộc hội luận giữa các thanh niên trong và ngoài nước xung quanh đề tài này, trong chuyên mục “Diễn đàn bạn trẻ”, phát thanh vào sáng thứ tư 23/5 tới đây.
Tiếng Việt
© 2007 Radio Free Asia


Bài liên quan:
- UNESCO không ra quyết-nghị «Hồ-chí-Minh là nhà văn-hoá»
- Cảm nhận của giới trẻ ngày nay về lãnh tụ Hồ Chí Minh
- Cựu đại tá Bùi Tín nói về ông Hồ Chí Minh
- Bức Thư Mật Liên Quan Đến Cuộc Đời Của Hồ Chí Minh
- Vài Mẩu Chuyện Về Cuộc Ðời Hồ Chí Minh
- Ðêm giữa ban ngày : caí chết của Nông thị Xuân, vợ bác Hồ
- Ý kiến của Trần Thái Bình từ Hà Nội
- Tôn Vân Anh và Robert KRZYSZTON (Balan) Phỏng Vấn Ông Bùi Tín
- Tăng Tuyết Minh, Người Vợ Trung Quốc Của Nguyễn Ái Quốc
- Huyền Thoại Về Một Người Ra Đi Tìm Đường Cứu Nước
- Công-hàm bán nước của CSVN 1958
- 16 tấn vàng của nhân dân VNCH ngày 30/4/1975 đi về đâu ???
-

Bức Thư Mật Liên Quan Đến Cuộc Đời Của Hồ Chí Minh

Ðăng ngày 14 tháng 03 năm 2003
(Tài liệu mật từ Văn Phòng Chủ Tịch Quốc hội Cộng Sản Việt Nam. Nguyên văn bức thư này được giữ tại Văn Phòng Chủ Tịch Quốc Hội Cộng Sản Việt Nam.)

Cao Bằng ngày 29 tháng 7 năm 1983.

Kính gởi Ông Nguyễn hữu Thọ Chủ tịch quốc hội nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

Tôi là một thương binh đã 25 năm nay vô cùng đau khổ, không dám hé răng với ai. Không phải chỉ vì vết thương bom đạn, chiến tranh mà là một vết thương lòng vô cùng nhức nhối. Nay tôi xắp được từ giã cái xã hội vô cùng đen tối này đi sang thế giới khác, tôi phải chạy vạy rất khó khăn mới viết được bức thư này lên Chủ tịch, hy vọng ông còn lương tri, lương tâm đem ra ánh sáng một vụ bê bối vô cùng nghiêm trọng tàn ác, mà người vợ chưa cưới của tôi là một nạn nhân. Nay tôi hy vọng những tên hung thủ được lột mặt nạ trước công chúng, không để cho chúng ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.

Nguyên từ năm 1954 tôi có người yêu tên Nguyễn thị Vàng, 22 tuổi quê làng Hà Mạ, Xã Hồng Việt, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Cô Vàng có người chị họ là Nguyễn thị Xuân, tên gọi trong gia đình là cô Sang tức Minh Xuân. Tôi nhập ngũ đi bộ đội cuối năm 1952. Cô Vàng và cô Xuân tình nguyện vào công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Được mấy tháng sau ông Trần Đăng Ninh, Tổng cục trưởng Tổng cục hậu cần mấy lần đến gặp cô Xuân. Đầu năm 1955 thì đem xe tới đón về Hà Nội, nói là để phục vụ Bác Hồ. Được mấy tháng sau thì cô Xuân cũng xin cho cô Vàng về Hà Nội, ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm với cô Xuân và cô Nguyệt con gái ông Hoàng văn Đệ cậu ruột cô Xuân.

Đã luôn 2 năm tôi chỉ được tiếp thư chứ không được gặp cô Vàng, người yêu của tôi. Nhưng khoảng tháng 10 năm 1957 tôi bị thương nhẹ được đưa về điều trị tại bệnh viện Huyện Hoà An. Chúng tôi vô cùng sung sướng lại được gặp nhau. Trong một tuần lể cô Vàng kể lại mọi nỗi đau xót cô đã gặp phải cho tôi nghe. Tôi xin ghi lại tỉ mỉ những lời cô Vàng tâm sự với tôi, mà không bao giờ tôi có thể lãng quên đi được. Vàng kể :

Đầu năm 1955 cô Xuân được về gặp Bác Hồ. Bác Hồ định lấy cô Xuân làm vợ chính thức. Mấy tháng sau chị Xuân xin cho em cùng về ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, Hà Nội. Còn tầng dưới thì cho ông Nguyễn Quý Kiên, Chánh văn phòng Thủ tướng phủ ở. Vì các lãnh đạo không cho chị Xuân cùng ở với Bác trên nhà chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng bộ Công an trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về ở 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của Công an.

Cuối năm 1956 chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Em có nhiệm vụ bế cháu.

Ông Bộ trưởng Công an có nhiệm vụ quản lý chị Xuân nên thường đến luôn. Nhưng một buổi tối vào khoảng mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957, ông Hoàn tới, ngồi nói chuyện vu vơ một tí rô i nắm tay chị Xuân, kéo vào một cái buồng xép, từ cầu thang đi lên, vật chị Xuân lên một cái giường nhỏ, định hãm hiếp. Chị Xuân bị nhét khăn vào miệng nhưng vẫn ú ớ la lên. Em hoảng sợ la tru tréo. Còn chị Nguyệt sợ quá, rúm người lại ngồi một góc tường. Nghe tiếng cửa sổ nhà dưới xô xầm vào tường, lão Hoàn bỏ chị Xuân ra, rút khẩu súng lục trong túi áo hoa lên nói to : "Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết" rồi hầm hầm chạy xuống thang ra ô tô chuồn.

Chị Xuân thất thểu đi ra khóc nức nở, ôm choàng lấy em. Em hỏi nó nắm tay chị, sao chị không văng vào mặt nó để nó dắt đi ? Chị Xuân vừa nức nở vừa nói : Đau khổ nhục nhả lắm. Chị phải nói hết để các em tha tội cho chị. Từ hôm chị mới về nhà này, có một bà già độ 60 tuổi ở một buồn dưới nhà, vợ một cán bộ Công an đã chết, lên thân mật nói chuyện với chị rằng : Sao cô ở đây một mình ? Bạn đàn bà để tôi nói thật cho cô biết. Cái lão đem cô về đây là một tên côn đồ lưu manh, dâm ô tàn ác vô kể. Tôi xin kể một vài chuyện cho cô nghe. Ông Lương Khánh Thiện, một Uỷ viên Trung ương, bị đế quốc Pháp giết có con gái tên là Bình. Chị Đường, vợ anh Thiện đem con gái gởi bác Hoàn nhờ bác tác thành cho. Lão Hoàn đã hiếp nó, nó chửa rồi chọn một tên lưu manh vào làm Công an để gả cô Bình làm vợ. Lão lại đem một cô gái có nhan sắc nhận là cháu, cũng hiếp cô gái này cho tới chửa, rồi giết chết quăng xác xuống hồ Ha Le để khỏi mang tiếng. Cán bộ Công an nhiều người biết chuyện của nó, nhưng không ai dám hở răng, vì sợ lão vu cho tội gì bắt giam rồi thủ tiêu.

Nghe chuyện đó chị cũng khủng khiếp, nhưng lại nghĩ là nó đối với mọi người khác, còn đối với mình thì nó đâu dám. Nhưng chỉ được mấy hôm sau chị nghe tiếng giầy đi nhè nhẹ lên gác, chị chạy ra thì thấy nó đi lên nhếch mép cười một cách xõ lá. Nó chào chị rồi đi thẳng vào nhà, nó ôm ghì lấy chị vào lòng rồi hôn chị. Chị xô nó ra nói : "Không được hỗn, tôi là vợ ông chủ tịch nước". Nó cười một cách nhạo báng : "Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh bà nằm trong tay tôi". Rồi nó lại nói : "Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt ở tù, thủ tiêu đứa nào tuỳ ý. Và tôi nói cho bà biết cụ già nhà bà cũng không ngoài tay với của tôi."

Rồi nó rút khẩu súng lục dí vào ngực chị. Chị ngồi xụp xuống ghế nói : "Anh cứ bắn đi". Nó cười khì khì : Tôi chưa dại gì bắn. Tôi tặng bà vật khác. Nó dắt súng vào túi quần rồi rút ra một sợi dây dù to bằng chiếc đũa, đã thắt sẳn một cái thòng lọng. Nó quàng cái tròng vào cổ chị rồi kéo chị đi lại cái giường kia, đẩy chị nằm xuống, rồi đầu sợi giây nó buộc vào chân giường. Chị khiếp sợ run như cầy sấy. Nó nói " Bây giờ bà muốn chết tôi cho bà chết ". Rồi nó lột hết quần áo chị, nó ngồi xuống nó ngắm nghía ngâm nga :

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà, đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây ? Phẩm tiên đã đến tay phàm, thì vin cành quýt cho cam sự đời .

Rồi nó nằm đè lên hiếp chị. Chị xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay chị nói : " Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già mà còn vờ làm gái ". Xong nó cởi thòng lọng cho chị, rồi nó ngồi bên chị tán tỉnh hàng giờ : "Anh thương em lắm. Người ta gặp hạnh phúc phải biết hưởng hạnh phúc. Nếu em thuận tình thì muốn gì cũng có. Nó đeo vào tay chị một chiếc nhẫn vàng, chị đã ném vào nhà xí. Nó lại dặn : " Việc này phải tuyệt đối bí mật, nếu hở ra thì mất mạng cả lũ và tôi nói cho cô biết ông cụ tin tôi hơn cô."

Rồi từ đó chị biến thành một thứ trò chơi của nó. Thấy bóng dáng nó chị như một con mèo nhìn thấy con cọp, hồn vía lên mây. Nó muốn làm gì thì tuỳ ý nó. Trong mấy tháng trời chị tính quẩn lo quanh, không biết tâm sự với ai mà không làm sao thoát khỏi nanh vuốt của nó. Nhớ lại lời nói của bà già, chị liền xin bác cho hai em về đây, mong tránh được mặt nó.

Nhưng những hôm Công an gọi các em đi làm hộ khẩu, đi làm chứng minh thư lâu hàng buổi là nó tới hành hạ chị. Nó bảo chị phải nói cho hai em biết. Phải biết câm cái miệng nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Hôm nay nó lại đây trắng trợn như vậy vì nó tưởng chị đã dặn hai em rồi. Bây giờ việc đã xẫy ra chị thấy rất nguy hiểm. Em nói : "Hay là chị em ta trốn đi ?". Chị Xuân nói : "Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin bác cho mẹ con ra công khai". Bác nói : "Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa". Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị : "Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không ?". Chị thưa : "Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội. Còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu." Bác nói : " Không nhẽ ông Bộ Trưởng Công an nói dối."

"Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vu gì đó để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta". Chị Xuân lại nói : "chị bị giết cũng đáng đời, chị rất hối hận xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị". Em thấy nguy hiểm vì tên Hoàn đã nổi tiếng ở Bộ Công an là một tên dâm bôn vô cùng tàn ác.

Đến độ một tuần sau, vào 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc xe com măng ca thường đón chị Xuân lên gặp bác Hồ, anh Ninh xồm, người bảo vệ Trần Quốc Hoàn chuyển lên bảo vệ Bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp Bác. Chị Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra đi. Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên Công an Hà Nội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phủ Doãn. Em hốt hoảng đưa cháu cho Chị Nguyệt, ra lên xe Công an vào bệnh viện. Em không được vô nhà xác, họ nói còn mổ tử thi. Lên một phòng chờ em thấy trong phòng đã khá đông người : Công an, Tòa án, Kiểm sát viên. Sau một tiếng, hai bác sĩ, một cán bộ Công an, một kiểm sát viên lên phòng chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to lên cho mọi người nghe. Tử thi thân thể không có thương tích gì, thấy rõ không bị tai nạn ô tô và cũng không phải bị đâm chém đánh đập gì. Mổ tử thi trong cơ thể lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì. Da dầy không có thức ăn, không có thuốc độc. Tử cung không có tinh trùng biểu thị không bị hiếp dâm.

Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nức. Mổ sọ não không còn óc, mà chỉ còn nước nhờn chảy tuôn ra. Bác sĩ tuyên bố đây có thể bị chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh vào giữa đầu. Đây là phương pháp giết người của bọn lưu manh chuyên nghiệp của nhiều nước đã xử dụng. Em vô cùng đau khổ chạy về kể chuyện lại cho chị Nguyệt nghe để hai chị em cùng khóc. Ít lâu sau một cán bộ Công an đến bế cháu Trung đi, chúng em không được biết đem đi đâu. Rồi em thì được đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu sống chết thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển về bệnh viện Cao Bằng, em khóc luôn, họ cho là em bị thần kinh nên cho về đây điều trị. May lại được gặp anh kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết được vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở Cao Bằng có hôm em thấy thằng Ninh xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít hôm họ tuyên bố em bị thần kinh được chuyển về điều trị tại Hoà An.

Tôi chỉ được gặp Vàng em tôi có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957 cô Vàng đi về thăm ông cậu Hoàng văn Đệ. Hung thủ đi theo rồi giết chết em tôi quăng xác xuống sông Bằng Giang đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ. Tôi được tin sửng sốt chạy về cầu Hoàng Bồ thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồi. Nghe dư luận xôn xao bị đánh vở sọ, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Tôi đâm bổ về Hà Nội liên lạc được với một cậu bạn cùng học làm việc ở Toà án Hà Nội. Tôi kể vụ án em tôi bị giết thì bạn tôi sao cho tôi một bản Công Văn Viện Kiểm sát hỏi toà án về vụ em tôi và cô Xuân bị giết. Tôi xin sao bản văn đó trình ông để tiện việc điều tra. Vụ này nhiều người bị giết. Cô Xuân, vợ cụ Hồ Chí Min h, cô Vàng, vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở Trường y tá Thái Nguyên nghe chuyện Vàng kể đi nói chuyện lại cũng bị giết lây.

Mấy chục năm nay tôi tim gan thắt ruột, nghĩ cách trả thù cho em tôi nhưng sức yếu thế cơ đành ngậm hờn chờ chết. Theo Vàng dặn lại, tôi liên hệ với một sốcán bộ về hưu Công an, kiểm sát họ cho tôi biết cậu Trung ngày đó đã được đưa về cụ Bằng nuôi. Độ 4, 5 tuổi thì gửi cho Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969 ngày Bác Hồ mất thì giao cho ông Vũ Kỳ, nguyên Thư Ký của Bác, nay là Phó Giám đốc Bảo tàng Hồ chí Minh làm con nuôi. Vũ Kỳ có 2 con đẻ là Vũ Vinh và Vũ Quang, còn Vũ Trung là con nuôi ; là con chị Xuân với Bác Hồ. Tôi một thương binh sắp đi qua thế giới khác, máu hoà nước mắt viết thư này nhờ một người bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gởi tới trình ông. Mong ông lưu ý xét cho mấy việc :

1- Các ông sẵn lòng bảo vệ chân lý điều tra cho ra những đứa thủ mưu, thủ ác, chứ không truy xét những người có lương tâm phát hiện lũ tàn ác.

2- Ở xã Hồng Việt bà con bạn hữu chị Xuân vào trạc tuổi 45 trở lên còn khá nhiều đều biết rõ ràng cô Vàng, cô Xuân, cô Nguyệt và chắc gia đình của cô Xuân còn khá nhiều di vật của cô Xuân. Nhưng tất cả mọi người đều khiếp sợ, không dám hé răng. Mong ông cho điều tra thận trọng, bí mật, vì việc điều tra này bị lộ thì cả lô bà con này bị thủ tiêu.

3- Cậu Nguyễn Tất Trung còn sống khoẻ mạnh nhưng việc điều tra lộ ra thì cậu cũng dễ dàng bị thủ tiêu. Tên hung thủ lái xe đón bà Xuân đi giết là Tạ Quang Chiến hiên nay là Tổng cục Phó Tổng cục Thể dục Thể thao. Còn tên Ninh xồm thì chúng tôi không hiểu đã leo lên chức vụ nào rồi.

Từ thế giới khác kính chúc Ngài nhiều hạnh phúc.

Vợ chồng Nguyễn thị Vàng

(quehuongmedia)

Vài Mẩu Chuyện Về Cuộc Ðời Hồ Chí Minh

Sự thật lịch sử:
Vài Mẩu Chuyện Về Cuộc Ðời Hồ Chí Minh

Nguyễn Minh Cần
(Cựu Phó Chủ Tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội)

--------------------------------------------------------------------

Người viết bài này hy vọng góp thêm vài "mẩu chuyện" vào cuốn sách "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" của Trần Dân Tiên mà như lời giải thích miệng "từ Trên," khi cuốn sách được xuất bản lần đầu ở miền Bắc -- "tác giả của nó là một nhà báo nổi tiếng có cơ hội được biết rõ về thân thế của Người." Thực ra, hồi những năm 50, đại đa số cán bộ, chứ nói gì đến nhân dân, chưa hề nghe tên và không ai biết cái ông "nhà báo nổi tiếng" Trần Dân Tiên, tác giả cuốn sách "bất hủ" đó, là ai cả. Chỉ có một số rất ít cán bộ cao cấp thì thầm rỉ tai nhau về điều bí mật quốc gia: "... Chứ còn ai nữa!"

Mãi về sau này, qua hàng mấy thập niên, nhiều người mới ngã ngửa ra là ông tác giả "Chứ còn ai nữa!" đó, ông Trần Dân Tiên huyền thoại kia, chính là ông Nguyễn Tất Thành, cũng chính là ông Nguyễn Ái Quốc, và cuối cùng, cũng chính là... ông Hồ Chí Minh. Thế nhưng báo chí chính thức ở Việt Nam cho đến nay vẫn tiếp tục "giấu như mèo giấu c..." Theo tôi biết, hình như trong "thế giới" cộng sản, chỉ có hai lãnh tụ trực tiếp tham gia vào việc "xây dựng" tiểu sử của mình để lưu danh hậu thế là Stalin và Hồ Chí Minh. Tôi nói "hình như" vì không biết chính xác Kim Nhật Thành đã làm phù phép như thế nào với tiểu sử của ông ta. Nhà độc tài đẫm máu Stalin đã không trắng trợn tự tay viết tiểu sử của mình, mà giao cho một ban của Trung ương đảng, viết theo sự hướng dẫn của chính ông và cuối cùng ông "chỉ" hiệu đính tiểu sử của mình trước khi cho xuất bản. Còn "một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy..." (trí ch sách "Những mẩu chuyện...", tr. 7) thì... tự tay mình viết tiểu sử của mình để tự tôn vinh, tự đề cao chán chê, rồi "lập lờ đánh lận con đen" đặt tên tác giả là Trần Dân Tiên. Quả là một sự phỉ báng đối với lương tri con người!

Mặc dù thế, tôi xin thành thật khuyên các bạn, ai đã có cuốn sách "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" thì chớ vội nóng nảy vứt nó đi mà phí, trái lới, thỉnh thoảng nên đọc lại để thấy rõ hơn bức chân dung thật của người viết ra nó. đó?224; tấm gương để đời!

Ngay từ đầu sách, bạn gặp đoạn này: "Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn: Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lới thân thế của mình." Hay một đoạn khác: "Tôi (lời Trần Dân Tiên huyền thoại) nói rõ mục đích của tôi. Chủ tịch chú ýϠnghe. Sau khi nghe xong, Người cười và đáp: "Tiểu sử đấy là một ýϠkiến hay. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp kia đã! Còn tiểu sử của tôi... thong thả sẽ nói đến!" Thế rồi Trần Dân Tiên (!) kết luận: "Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lới cho tôi nghe bình sinh của Người được?" Hay là đoạ?#243;i về thời gian "khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thiếu niên mười lăm tuổi," thế mà cậu bé 15 tuổi ấy đã đủ hiểu biết, đủ láo xược để phê phán cả các bậc tiền bối là những anh hùng lịch sử vào hàng cha chú mình, như các cụ Phan Ðình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Hay một đoạn nữa: "Và nhân dân Việt Nam muôn người như một, nghe theo lời Hồ Chủ tịch, vì họ hoàn toàn tin tưởng ở Hồ Chủ tịch, họ hoàn toàn kính yêu Hồ Chủ tịch. Không có gì so sánh được lòng dân Việt Nam kính mến tin tưởng lãnh tụ Hồ Chí Minh. Nhiều nhà báo và nhiều bạn ngoại quốc rất lấy làm ngạc nhiên trước lòng kính yêu của nhân dân Việt Nam đối với vị Cha già Hồ Chí Minh. Nhưng đối với chúng ta, người Việt Nam thì rất dễ hiểu."

Còn nhiều, rất nhiều "hạt ngọc châu" như thế nữa! Nhưng thôi, nhân tiện nói qua thế, chứ mục đích người viết bài này không phải để nói về cuốn sách "Những mẩu chuyện...", mà để bổ sung thêm vài nét vào bức chân dung của ông Hồ Chí Minh nhân dịp tháng 5, kỷ niệm ngày sinh "của Người," dù biết tỏng tòng tong là cả ngày, cả tháng, cả năm sinh "của Người" đều là "phịa" (xin cho phép tôi dùng khẩu ngữ này, có nghĩa là bịa đặt trắng trợn), và thậm chí trong một thời gian nhiều năm, cả ngày chết "của Người" cũng là "phịa" nốt. Cố nhiên, trong trường hợp sau, "Người" không có lỗi. Nhưng, một con người mà ngày sinh, tháng sinh, năm sinh, cho đến ngày chết đều là "phịa" cả, thì có gì bảo đảm là "những mẩu chuyện" tự kể về mình lới là không "phịa"? Nhưng dẫu sao chăng nữa, tháng 5 cũng là có dịp để "tưởng nhớ tới Người"! Vài "mẩu chuyện" mà tôi sắp kể đây là những chuyện về Chủ tịch Hồ Chí Minh có liên quan đến "vấn đề phụ nữ" (dĩ nhiên, không phải vấn đề giải phóng phụ nữ đâu!), và không phải là thời kỳ ông ở Pháp, Nga, Trung Quốc (vì đã có khá nhiều bài báo viết về những thời kỳ đó rồi). "Những mẩu chuyện" này thuộc thời kỳ ông ở Việt Nam, và cũng chỉ vẻn vẹn trong vài năm thôi, sau khi chính quyền cộng sản tiếp thu những "vùng tạm chiếm" của Pháp ở miền Bắc.

MỘT ÁN MẠNG XE CÁN
Sau khi rời Hà Nội đi Moskva, theo học ở Trường đảng cao cấp của Trung ương đảng cộng sản Liên Xô hồi năm 1962, và nhất là sau khi tôi đã ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản hồi đầu tháng 6 năm 1964, trong lòng tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi một câu chuyện mà càng ngày tôi càng thấy rõ có cái gì đây đầy oan khuất, đầy mờ ám, rất là nghiêm trọng, mà bây giờ ở ngoài nước, trong hàng chục năm, lắm lúc tôi cảm thấy bó tay không thể nào tìm hiểu được. Chuyện thế này: hồi cuối những năm 50 đầu những năm 60, tôi là phó chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, thường ngày tôi xuống các cơ sở. Nhưng sáng hôm đó, tôi nhớ là vào đầu xuân, tôi phải đến thường trực tại Ủy ban, thì anh Nguyễn Quốc Hùng, ủy viên trong Ủy ban, phụ trách văn phòng, bước vào phòng tôi, hồi hộp nói: "Báo cáo anh có một việc xảy ra, có một người đàn bà bị xe ô tô cán ở đoạn đường Nhật Tân phía đi lên Chèm..." Tôi đưa mắt nhìn Quốc Hùng, có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng không nói gì. Ngạc nhiên vì trong óc tôi thoáng một ýϠnghĩ, xe ô tô cán người ở Hà Nội chẳng phải là chuyện gì hiếm, sao anh ấy lại báo cáo với mình. Tôi im lặng chờ đợi. Quốc Hùng nói tiếp: "Nhưng mà, anh à, theo sự điều tra thì không phải là xe cán người, mà làm ra vẻ xe cán người..." Dừng lại một lúc, anh nói thêm: "Mà... theo báo cáo thì chiếc xe ấy lại chạy từ Chủ tịch phủ ra..." Mấy tiếng cuối cùng "từ Chủ tịch phủ ra" đã gây cho tôi một cảm giác thật mạnh. Nhưng lúc đó, thật ra, tôi không hề có mảy may ýϠnghĩ là việc này có liên quan gì đến vị Chủ tịch nước mà hồi đó, tôi chân thành kính yêu và tin tưởng. Một ýϠnghĩ thoáng qua trong óc: hay là bọn phục vụ ở Chủ tịch phủ đã làm bậy bạ cái gì đây với chị kia, rồi giết đi và bày trò cán xe? Suy nghĩ một lúc, tôi nói: "Theo quyết định của Trên, mọi vấn đề thuộc về công an, tòa án thì do bí thư Thành ủy giải quyết, nhất là những chuyện có dính dấp đến Trên, việc này không thuộc thẩm quyền của Ủy ban hay Thành ủy, vậy hôm nay, anh đến gặp anh Tuyên báo cáo ngay anh ấy biết để anh giải quyết thì hơn."
Hôm sau, gặp lại, tôi hỏi thì Quốc Hùng cho biết: đã báo cáo rồi và anh Tuyên bảo anh sẽ trực tiếp làm việc với anh Thân (Lê Quốc Thân, hồi đó là giám đốc Sở công an Hà Nội, về sau được thăng chức thứ trưởng Bộ công an). Khoảng một tuần sau, nhân gặp Trần Danh Tuyên, bí thư Thành ủy kiêm phó chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố, tôi tranh thủ hỏi về vấn đề đó, thì anh ta lạnh lùng gạt đi: "Thôi, việc đó xong rồi." Biết là không thuận lợi cho một cuộc trao đổi cởi mở, nên tôi im... Khi đã ở nước ngoài, trong nhiều năm tôi cứ băn khoăn mãi về chuyện đó.

Hồi tháng 7 năm 1993, khi gặp nhà văn Vũ Thư Hiên, một người "cùng cảnh ngộ," tức là cùng bị dính vào "vụ án xét lại - chống đảng," đã sang được Moskva, tôi mới đem chuyện đó kể ra. Hiên bật người lên, vui mừng ra mặt, dường như anh được thêm một người nữa biết cái chuyện "thâm cung bí sử " này và chuyện tôi kể cho anh lới một lần nữa xác nhận điều mà cụ thân sinh của anh, ông Vũ đình Huỳnh, đã dặn dò anh. Hiên nói liền: "Nhưng không phải ô tô từ Chủ tịch phủ phóng ra đâu, anh ạ. Mà từ phố Hàng Bông Nhuộm đi lên Nhật Tân..." Tôi đáp lại: "Chính là Quốc Hùng nói với tôi thế!" Rồi Hiên thủng thẳng tâm sự với tôi: "Có một hôm, ông cụ tôi bảo tôi lên xe, chúng tôi đi lên Hồ Tây, rồi theo đường Quảng Bá đi lên đường Nhật Tân, chỗ làng đào, anh biết chứ?" Tôi trả lời theo kiểu dân Bắc: "Biết quá đi, chứ lị! Từ 51, tôi phụ trách ngoại thành cơ mà." Yên trí là tôi biết rõ địa thế vùng này, anh kể tiếp: Dừng xe lại, hai bố con ra xe, ông cụ dẫn anh đến một đoạn đường, hình như một bên có rặng ổi, rồi bảo: "Con ơi, con nhớ những lời bố dặn đây! Tới đây, đánh dấu một vụ án mạng, một vụ oan khuất khủng khiếp mà Trần Quốc Hoàn (ủy viên Bộ chính trị, bộ trưởng công an) là chính danh thủ phạm. Con hãy ghi nhớ, khi có dịp thì nói lên sự thật..."

Câu chuyện đại để thế này: có một chị nữ thanh niên người Nùng ở Cao Bằng, tên là Nông Thị Xuân, được đưa đến "phục vụ" Bác Hồ, cô đưa em là Nông Thị Vàng và một cô em họ nữa về Hà Nội. Sau đó, cô Xuân đẻ cho Bác một đứa con trai, được đặt tên là Nguyễn Tất Trung, và còn có tin đồn, một đứa con gái nữa, tên là Nguyễn Thị Trinh... Thế rồi Trần Quốc Hoàn hiếp cô Xuân tại nhà phố Hàng Bông Nhuộm, sau đó giết chết, rồi bày trò xe ô tô cán người tới đường Nhật Tân để lấp liếm tội ác. Sau khi cô chị bị giết, cô em chạy về Cao Bằng, rồi cũng bị giết nốt để "bịt đầu mối," và người em họ cô Xuân cũng không thoát khỏi bàn tay đẫm máu của nó. Người yêu của cô Vàng đã viết thư tố cáo hung thủ.

Thật ra, những điều Vũ Thư Hiên kể tuy có rọi thêm vài tia sáng, nhưng vẫn chưa thỏa mãn được cái ýϠmuốn tìm hiểu sự việc cụ thể của tôi, nên tôi vẫn tiếp tục cố làm sáng tỏ vấn đề này. Những năm gần đây, nhờ việc đi lại của người trong nước sang Nga được dễ dàng hơn, nên vài người đã kể cho tôi thêm những chi tiết rất có giá trị, bổ sung cho những điều tôi đã biết. Nhưng tất cả những điều đó chỉ là nghe lại của người này, người khác, không có chứng cứ nào, không có tài liệu cụ thể nào xác minh, giúp cho tôi được vững tin. May mắn là mới đây có một người quen cho tôi xem một tài liệu với nhiều chi tiết cụ thể xác nhận về cơ bản những điều tôi đã tìm hiểu được trong những năm qua. Sau khi cẩn thận xem xét kỹ tài liệu đó, tôi có thể tin tưởng ở tính chất chân thật của nó. Tài liệu gồm có một bức thư dài năm trang đánh máy của người chồng chưa cưới của cô Vàng đã bị giết, viết ngày 29 tháng 7 năm 1983 gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kèm theo một bức thư một trang của một số thương binh, bạn cùng chiến đấu với anh ta, không đề ngày (có lẽ là gửi cùng ngày?), gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, đồng gửi ông Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng CSVN, ông Phạm Văn Ðồng, Chủ tịch HÐBT và ông Phạm Hùng, Phó Chủ tịch HÐBT, tố cáo hành vi tội ác của bọn hung thủ đã giết hai nhiều người vô tội. Nhưng có một điều rất "kẹt" cho tôi là anh bạn cho xem tài liệu lại dặn tôi đến hai lần "đừng công bố bản tài liệu," cho nên tôi không thể làm trái ý "người chủ" tài liệu.

Tuy nhiên, tôi mong rằng anh ấy sẽ nghĩ lại và tự anh hoặc nếu anh thấy không tiện cho mình thì giao cho một người nào khác sớm công bố toàn văn bản tài liệu đó để thực hiện ước nguyện của những người đã chết oan và của những người đã bất chấp nguy hiểm, "máu hòa nước mắt viết thư này" (lời trong thư). Phải nói rằng những người viết thư thật rất dũng cảm, đáng kính phục. Vì Chân Lý, người ta coi thường cái chết, khi viết những lời thật xót xa, đầy mai mỉa và thách đố đối với những kẻ cầm quyền và chế độ hiện tồn trong nước; những lời ấy vang lên như tiếng thét đau thương, ai oán, đã bị nhóm cầm quyền cộng sản dìm đi, bóp nghẹt trong hàng mấy thập niên rồi: "Chúng tôi, những thương binh đã đổ xương máu vì độc lập của quốc gia, tự do, công lýϠcho nhân dân, chúng tôi rất mong Ngài vì chân lýϠmà tìm ra hung thủ, xử lý thích đáng, treo cổ hung thủ công khai hoặc bí mật. Nếu trái lại, vì bè lũ, phải bao che cho hung thủ không trừng trị được bọn tàn ác này, thì chúng tôi xin phép Ngài phổ biến rộng rãi vụ bê bối này cho toàn thể thương binh và bộ đội biết để họ đổ xương máu bảo vệ NGAI VÀNG CỦA CÁC NGÀI. Và hơn nữa, chúng tôi sẽ tuyên bố vụ bê bối giết vợ Cụ HỒ CHÍ MINH này cho toàn thế giới biết để cả nhân loại tin tưởng vào chế độ ưu việt của các Ngài. Chúng tôi một số thương binh sống dở chết dở, vì vấn đề này mà các Ngài muốn bỏ tù hay thủ tiêu, chúng tôi không hề sợ, và có khi như vậy lại đỡ khổ cho chúng tôi." (đúng nguyên văn, kể cả những chữ hoa).

PHƯƠNG MAI
Viết đến đây, tôi nhớ đến Nguyễn Chí Thiện, đã liều mình, bất chấp mọi nguy hiểm, xông vào sứ quán Anh ở Hà Nội để đưa tập thơ của anh ra nước ngoài. Không có những con người gan dạ như thế, làm sao bảo vệ Chân LýϠvà chống lại điều ác được? Theo lời dặn của anh bạn, tôi không công bố toàn văn tài liệu đó. Nhưng những gì tôi tìm hiểu được trong mấy năm qua, nhờ sự giúp đỡ của anh chị em trong nước và được tài liệu kia xác nhận, tôi tự thấy mình có bổn phận chia sẻ với mọi người, cốt để làm sáng tỏ thêm sự thật đã bị che giấu 40 năm rồi và phần nào đáp ứng, dù là một cách quá muộn màng đi nữa, lòng mong mỏi cuối cùng của những oan hồn đang ngậm hờn ở thế giới bên kia. Hơn nữa, ngay ở trong nước, tờ báo bí mật, gan dạ Người Sài Gòn, "tiếng nói của nhân dân thèm tự do ngôn luận," năm ngoái cũng đã tung vấn đề này lên rồi trong bài "Viết cho Ðào Duy Tùng." Và tôi tin chắc là nhà văn Vũ Thư Hiên cũng không thể bỏ qua chuyện này trong tập hồi ký "Ðêm Giữa Ban Ngày" của anh. Có điều tôi muốn nói rõ là tội ác của bọn hung thủ đê tiện trong vụ thảm sát một loạt người này, tuy rùng rợn, khủng khiếp thật, nhưng lại không phải là đề tài chính của bài này, vì ý định của tôi chỉ là bổ sung thêm vài nét chân thực vào bức chân dung của vị Chủ tịch đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trước khi kể lới chuyện trên, tôi xin phép nói đến một chuyện khác, mới nghe thì thật tào lao, nhưng lới có thể giúp cho ta hiểu được nhiều điều. Nói chung, hồi đó, khi tôi còn ở trong nước, cán bộ ở miền Bắc (và có lẽ cả miền Nam nữa), ngay cả trong câu chuyện riêng tư, không hề dám hé răng nói bất kỳ chuyện gì về các lãnh tụ, ngoài những lời sùng bái, tán tụng, ngoài những khuôn sáo đã định sẵn, như "ơn Bác, ơn đảng," v.v... Sự sùng bái cá nhân các lãnh tụ đã được gieo cấy sâu đậm vào tiềm thức cán bộ và dân chúng đến nỗi mọi người cho rằng nói đến các lãnh tụ mà thiếu sự ca tụng, sự sùng kính, nhất là nói đến đời riêng của các lãnh tụ là điều "phạm húy" khủng khiếp, mà điều đó thì tối kỵ, trước tiên, vì... rất nguy hiểm cho bản thân. Chỉ có một số cán bộ cao cấp nào đó thỉnh thoảng khi cao hứng mới có thể tự cho phép "đả động" nhẹ nhàng đến các lãnh tụ trong chừng mực... "không bị đứt đầu." Cố nhiên, những việc như thế không phải là không nguy hiểm. Có một lần, tình cờ tôi được "dự" vào một cuộc "loạn đàm" như vậy. Hôm đó, sau một cuộc họp ở Thành ủy, mọi người ra về, chỉ còn lại ba chúng tôi: Trần Danh Tuyên, bí thư Thành ủy Hà Nội, Trần Vỹ, phó bí thư, và tôi. Ðang nói chuyện linh tinh, bỗng Trần Vỹ hỏi khẽ: "Thế nào, việc Phương Mai đã xong chưa?" Trần Danh Tuyên đáp: "Không xong." Trần Vỹ nói tiếp: "Cô ấy cũng sạch nước cản đấy chứ, sao lại không xong?" Vui miệng, tôi cũng chêm vào một câu: " Sạch nước cản... thế mà tướng Nguyễn Sơn lại chê là ngực lép kẹp, ăn thua gì!" Cả ba cùng cười, rồi Trần Danh Tuyên hạ giọng nói rất khẽ: "Cô ấy muốn đặt vấn đề đàng hoàng, nhưng mà... Bác và các anh (ýϠnói Bộ chính trị) cho rằng Bác không lấy vợ thì lợi cho uy tín chính trị hơn."

Xin nói rõ chuyện như thế này: hồi đó, có ýϠkiến là ông Hồ cần có vợ để việc "giải quyết sinh lýϢ được điều hòa thì tốt cho sức khỏe. Và sau Hiệp định Genève 1954, người ta chọn một người "kháu" nhất trong số nữ cán bộ trẻ, đó là chị Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Thanh Hóa và đưa chị từ Khu Bốn ra Hà Nội để tiến cử lên ông Hồ. Và như ta đã biết qua cuộc "loạn đàm," chị đặt vấn đề phải có hôn nhân đàng hoàng. Thế là... việc không thành. Rồi chị được bổ nhiệm làm thứ trưởng Bộ thương binh và ở luôn tại Hà Nội.

CÔ XUÂN BỊ GIẾT NHƯ THẾ NÀO?

Bây giờ xin quay trở lới câu chuyện những cô gái ở Cao Bằng. Theo những điều người ta kể cho tôi trong những năm gần đây và được xác minh qua tài liệu đã xem thì có hai chi tiết hơi khác (các cô họ Nguyễn và cô Xuân chỉ có một con với ông Hồ), ngoài ra, các chi tiết khác về cơ bản đều giống nhau. Sự việc cụ thể như sau:
Cô Nguyễn Thị Xuân (tên gọi trong gia đình là Sang) và em họ, cô Nguyễn Thị Vàng, 22 tuổi, quê làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cuối năm 1954, đã tình nguyện vào làm công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Ðược mấy tháng thì ủy viên Trung ương đảng, chủ nhiệm Tổng Cục Hậu cần Trần đặꮧ Ninh, gặp cô Xuân nói chuyện vài lần, rồi đầu năm 1955 cho xe đón cô Xuân về Hà Nội,"nói là để phục vụ Bác Hồ." Mấy tháng sau, cô Xuân cũng xin cho cô Vàng và cô Nguyệt (con gái của ông Hoàng Văn Ðệ, cậu ruột của cô Xuân) về Hà Nội ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm. "Vì các vị lãnh đạo không cho chị Xuân ở cùng với Bác trên nhà Chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ công an, trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của công an. Cuối năm 1956, chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung.

"Em có nhiệm vụ bế cháu," đấy là lời Vàng kể lới cho người chồng chưa cưới của mình trước khi cô bị giết. Và cũng nhờ Vàng đã kể lại, nên chúng ta biết được những sự việc sau đây.

Khoảng mồng 6, mồng 7 tháng 2 năm 1957, Trần Quốc Hoàn đến, nói chuyện vu vơ một lúc, rồi giở trò... kéo cô Xuân vào cái buồng xép, định hãm hiếp. Cô Xuân ú ớ la lên. Vàng hoảng sợ tru tréo, còn Nguyệt khiếp sợ quá co rúm lại ngồi ở trong góc. May lúc đó có tiếng cửa sổ nhà dưới xô sầm vào tường, Hoàn sợ, bỏ cô Xuân ra, rút súng lục ra dọa: "Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết." Rồi xuống thang, ra ô tô chuồn. Mấy hôm sau, Hoàn lại đến, lên gác, đi thẳng vào phòng, ôm ghì cô Xuân hôn. Cô Xuân xô nó ra: "Không được hỗn, tôi là vợ ông Chủ tịch nước." Nó nói: "Tôi biết bà to lắm, nhưng tính mạng bà nằm trong tay tôi." Rồi lấy súng dí vào ngực cô Xuân, nó rút ra sợi dây dù đã thắt sẵn thòng lọng tròng vào cổ cô Xuân kéo cô lên giường, tự tay lột hết quần áo, ngắm nghía, rồi hiếp cô. Cô Xuân xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay cô và nói: "Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già, lại còn vờ làm gái."

Từ đó cô Xuân trở thành thứ đồ chơi trong tay Hoàn. Nó bảo cô Xuân dặn cho hai em phải biết câm cái miệng, nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Mấy chị em lúc bấy giờ rất sợ bị giết, bàn nhau. Vàng đề nghị mấy chị em trốn đi thì cô Xuân nói: "Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác: bây giờ đã có con trai, xin Bác cho mẹ con ra công khai. Bác nói: cô xin như vậy là hợp tình hợp lýϮ Nhưng phải được Bộ chính trị đồng ýϬ nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ýϠmới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa... Mấy tuần trước, Bác lại hỏi chị: các cô ở đây có nhiều người lạ mặt tới thăm phải không? Chị thưa: ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội, còn bà con ở Cao Bằng thì không có ai biết chị em ở đâu. Bác nói không nhẽ ông bộ trưởng công an nói dối? Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vụ gì đó, để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ. Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại anh chị em chúng ta. Chị bị giết cũng đáng đời, chỉ rất hối hận đã xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị."

Ðến ngày 11 tháng 2 năm 1957, vào bảy giờ tối, một chiếc xe com măng ca thường đón cô Xuân lên gặp ông Hồ đỗ trước nhà. Tên Ninh, biệt danh là Ninh Xồm, bảo vệ viên của ông Hồ, vào gặp cô Xuân nói "lên gặp Bác." Cô Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra xe. Xe do Tạ Quang Chiến (tên này trong đội bảo vệ ông Hồ, về sau làm tổng cục phó Tổng cục Thể dục thể thao) lái đi. Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên công an Hà Nội đến báo tin cô Xuân bị chết vì tai nạn ô tô, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phú Doãn. Vàng vội vã đưa cháu Trung cho Nguyệt bế, lên xe công an vào bệnh viện, nhưng không được vào nhà xác. Chờ độ một tiếng sau thì có người bác sĩ ra đọc biên bản, đại ý: trên thân thể tử thi không có thương tích gì, cũng không phải bị đánh chém gì. Mổ tử thi, trong lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì, dạ dày không có thuốc độc, tử cung không có tinh trùng, chứng tỏ không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nứt, nước nhờn chảy ra. Bác sĩ nói: đây có thể là nạn nhân bị trùm chăn lên đầu, rồi dùng búa đánh vào giữa đỉnh đầu. Vàng nghe xong chạy về kể lại cho Nguyệt. Hai chị em cùng khóc...

Ít lâu sau, một cán bộ công an đến bế cháu Trung đi, hai chị em không biết đem đi đâu. Sau đó, Vàng được đưa đi học lớp y tá của Khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên, còn Nguyệt thì Vàng không biết người ta đưa đi đâu, sống chết ra sao. Học được mấy tháng thì Vàng được chuyển về bệnh viện Cao Bằng và may mắn được gặp người chồng chưa cưới ở đây, kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Cô nói với người yêu: "Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu, anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết, vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở۠Cao Bằng, có hôm em còn thấy thằng Ninh Xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít lâu họ tuyên bố em bị thần kinh, được chuyển về điều trị tới bệnh viện Hòa An."

Ð念226;y là lời người yêu, chồng chưa cưới của cô Vàng: "Tôi chỉ được gặp Vàng có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957, cô Vàng về thăm ông cậu Hoàng Văn Ðệ, hung thủ đi theo, giết chết, rồi quẳng xác xuống sông Bằng Giang, đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở Hoàng Bồ. Ðược tin, tôi chạy về cầu Hoàng Bồ, thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồi. Nghe dư luận bàn tán, cô bị đánh vỡ sọ, tiền, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Vụ này nhiều người bị giết: cô Xuân vợ Cụ Hồ Chí Minh, cô Vàng vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở trường y tá Thái Nguyên, nghe chuyện Vàng đi nói chuyện lại cũng bị giết lây. Mấy chục năm nay, tôi tím gan thắt ruột nghĩ cách trả thù cho em tôi, nhưng sức yếu thế cô, đành ngậm hờn chờ chết... "

Tiện đây, xin phép kể qua một chuyện ngoài lề có ý nghĩa. Hồi Vũ Thư Hiên còn ở Moskva, "người ta" dò biết là anh đang viết hồi kýϬ và hình như cũng đoán biết là anh có trong tay "những mẩu chuyện" nào đó. Thế là một hôm, "bọn trấn lột" người Việt đến nhà, chờ Hiên vào thang máy thì chúng ùa theo, đâm anh vào mông, giật chùm chìa khóa, rồi xông vào nhà. Chúng không đụng đến tiền bạc gì hết, mà chỉ tìm kiếm tài liệu và lấy các đĩa mềm máy tính, trong đó có phần hồi kýϠanh đang viết dở dang. Khi chúng đi rồi, Hiên gọi điện ngay cho tôi. Mấy hôm sau, anh lại báo tin rằng một tên gọi điện cho anh, bảo nếu muốn lấy lại đĩa mềm thì hãy "đến đấy, đến đấy" ở Moskva, mà theo lời anh, chỗ ấy là... ngôi nhà chung cư của cán bộ nhân viên sứ quán Việt Nam tại Nga. Hiên nói để trấn an tôi: "Cũng may là tôi đã dự phòng trường hợp này rồi. Anh yên tâm." Sau đó không lâu, Hiên đến nhà đưa cho tôi đọc 74 trang hồi ky ?911;a anh. Và một thời gian sau nữa, anh lặng lẽ rời khỏi nước Nga, tìm nơi khác an toàn hơn để "đậu"... Tôi kể chuyện này để thấy tính nhạy cảm cao độ của những-người-nào-đó đối với "những mẩu chuyện" không chảy theo luồng lạch của "lãnh đạo" và "người ta" sẵn sàng lao vào những hành động tội ác, điên cuồng, cực kỳ phiêu lưu, chỉ cốt để... bưng bít sự thật.

Nhưng, vì chân lýϬ lẽ nào chúng ta có quyền chôn vùi, hoặc để cho ai đó được phép chôn vùi sự thật? Trái lại, bằng bất cứ giá nào, phải tìm mọi cách để trả về cho Lịch Sử những sự kiện chân thật, khách quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để mọi điều, mọi người đều được đánh giá đúng đắn và công bằng. Công LýϠđòi hỏi như thế!

NHỮNG CÂU HỎI VỀ HỒ CHÍ MINH

Còn về cháu bé Nguyễn Tất Trung thì sau khi mẹ chết, nó được gửi cho ông Nguyễn Lương Bằng nuôi, độ 4-5 tuổi thì chuyển cho ông Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh mất thì giao về cho ông Vũ Kỳ, nguyên thư kýϠriêng của ông Hồ, làm con nuôi và đổi họ thành Vũ Trung. Tôi xin phép bỏ qua những tình tiết khác và dừng lại ở đây, vì đến đây, cũng đủ để có thể rút ra vài kết luận sơ bộ có liên quan đến đề tài cần nói:
1) Tôi luôn luôn nghĩ rằng không nên "xoi mói" vào đời tư của người khác, kể cả đời tư của các lãnh tụ. Việc các lãnh tụ có vợ, có con là chuyện rất thường tình. Ông Hồ, cũng như bất cứ ông lãnh tụ nào khác, cũng như bất cứ người nào khác, đều có thể có cuộc sống tình dục, cuộc sống gia đình, có thể có vợ, có con, có thể ly dị với vợ, rồi lới lấy vợ khác... Những điều đó không ai nên can thiệp đến. Thậm chí, dù cho ông lãnh tụ nào đó có vợ rồi, lại đi ngoại tình, "cặp bồ" với ai đó, như trường hợp Lenin, hay vợ sờ sờ ra đấy mà vẫn ngang nhiên ngủ với gái, hết cô này đến cô khác, như trường hợp Mao Trạch Ðông, hay đi hoang, rồi có con với người khác, như trường hợp Karl Marx, (những ví dụ này tôi không nói vu vơ, các sử gia và các nhà báo đứng đắn trên thế giới đã viết quá đủ, với những bằng chứng không thể chối cãi) thì cũng đáng phê phán đấy, nhưng cũng chẳng sao cả, trời không vì thế mà sập được! Chỉ có cái đầu óc ngu muội, phong kiến của cái đám lãnh đạo cộng sản kênh kiệu, tự coi mình là "trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại" hay là "đỉnh cao trí tuệ loài người," mới nghĩ rằng phải tô vẽ cho lãnh tụ thành một ông thánh sống, là một con người siêu phàm, không vợ không con... thì càng thêm uy tín chính trị.

Thế rồi cứ giấu kín cuộc đời riêng tư của các lãnh tụ như là bí mật quốc gia số một, hễ ai động khẽ đến là trừng trị tàn nhẫn. Ðấy, cái vụ vừa qua đảng "xử trí kỷ luật" một cách thô bạo đối với Kim Hạnh, tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, chỉ vì báo đó dám nói sơ sơ chuyện ông Hồ có vợ hồi ở Trung Quốc, là một chứng minh cho cái đầu óc ngu dốt, độc đoán, lố bịch của cái đám ấy. Lẽ cố nhiên, cách xử sự của người đàn ông đối với phụ nữ, đối với vợ con phản ánh toàn bộ tư cách, phẩm chất, đạo đức của con người, và điều đáng nói, đáng xem xét đối với các lãnh tụ chính là ở đó.

2) Theo tôi, các cô gái Cao Bằng, cũng như anh chồng chưa cưới của cô Vàng cùng các thương binh bạn chiến đấu của anh đều rất ngây thơ, tưởng là ông Hồ định lấy cô Xuân làm vợ thật, tưởng cô Xuân là vợ của ông Hồ thật. Khách quan mà xét, ông Hồ không muốn có vợ đàng hoàng, ông chỉ muốn giữ cái "uy tín chính trị" hão của "bậc siêu nhân," ông chỉ muốn được "tiếng" vì dân vì nước đến nỗi suốt đời không mơ tưởng đến chuyện vợ con. Và điều này nói ra chua xót thật, nhưng không thể không nói: cô Xuân chỉ là món đồ chơi trong tay ông mà thôi. Cô Xuân được đưa về Hà Nội là để "phục vụ" ông Hồ, cũng như bao nhiêu cô gái Trung Quốc đã được đưa đến Trung Nam Hải để "phục vụ" ông Mao (Xem hồi kýϠ"Tôi là bác sĩ riêng của Mao" của LýϠChí Tuy). Mồm ông Hồ nói nào là giải phóng phụ nữ, nào là chống tư tưởng phong kiến, tôn trọng phụ nữ, v.v... thế nhưng ông đã hành xử với phụ nữ cực kỳ phong kiến, coi phụ nữ chẳng khác gì món đồ chơi. Nhận xét như thế hoàn toàn không có tính chất vũ đoán, vì thử hỏi:

a. Nếu coi cô Xuân là vợ thật, tới sao ông lại không để cô ở chung tới ngôi nhà riêng của ông ở trong khuôn viên Chủ tịch phủ, mà bắt cô phải ở riêng mãi tận nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, (ai biết rõ Hà Nội thì dễ dàng hình dung được khoảng cách) là nhà của công an, lại phải chịu dưới sự quản lý trực tiếp của bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn và chỉ khi nào ông cần "được phục vụ" thì cho xe đón cô lên Chủ tịch phủ mà thôi? Trong những n ăm đó, ông Hồ chưa đến nỗi thất thế tới mức phải để cho Trường Chinh, Lê đức Thọ, Hoàng Quốc Việt có thể can thiệp vào cuộc sống tình cảm của ông như vậy, có thể khống chế ông như vậy. Ông đường đường là lãnh tụ tối cao, là Chủ tịch đảng, cơ mà!

b. Nếu ông coi cô Xuân là vợ thật thì khi cô đẻ con trai rồi, tại sao ông vẫn để hai mẹ con ở riêng tận 66 Hàng Bông Nhuộm và khi mẹ nó chết rồi, ông không đem con về nuôi, mà lại đưa cho người này, người khác nuôi cho đến khi thằng bé lên 13 tuổi, là năm ông qua đời, thì "người ta" (cũng khó biết được là ai, Bộ chính trị hay là theo lời dặn của bố đẻ đứa bé?) lại giao nó cho Vũ Kỳ làm con nuôi? Và xin các bạn chú ýϬ Vũ Kỳ đã (chắc chắn là anh ta không bao giờ dám tự ýϩ đổi họ thằng bé thành Vũ Trung, xóa mọi dấu vết tội lỗi của một ông họ Nguyễn Tất! Ở۠đây, khách quan mà nói, dường như ông Hồ không có chút tình thương yêu nào đối với đứa con đẻ của mình. Một người như vậy làm sao có thể thương yêu trẻ con người khác được?

3) Theo tôi, thật khó mà bác bỏ ýϠkiến cho rằng từ đầu đến cuối, ông Hồ cùng đám cận thần của ông, những ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ chính trị, đã đánh lừa tệ hại cô Xuân, một cô gái quê ngây thơ ở miền núi, làm cho cô tưởng lầm ông định lấy cô làm vợ thật. Khi có con với ông rồi, cô xin cho hai mẹ con "được ra công khai" (chắc ýϠnói hợp thức hóa) thì một mặt ông làm ra vẻ thông cảm, thừa nhận yêu cầu đó là hợp tình hợp lýϬ nhưng mặt khác ông lại chỉ vào các ông trong Bộ chính trị mà nói là các ông kia có quyền quyết định chứ không phải ông, phải chờ ý kiến của các ông kia, làm như ông không phải là "lãnh tụ tối cao," không phải là Chủ tịch đảng, làm như ông ở dưới quyền mấy ông kia trong Bộ chính trị. Rồi ông còn khuyên nhẹ nhàng: "Cô đành phải chờ một thời gian nữa!" Và thật tội nghiệp cho cô Xuân, cô đã chờ, chờ... đến khi bị giết!

4) Còn có nhiều điều khác mà trong tình hình hiện nay khó có thể tìm ra được lời giải đáp: Tại sao Trần Quốc Hoàn lại có thể có thái độ trắng trợn, đê tiện như thế đối với cô Xuân? Dù cô không phải là vợ chính thức thì cũng là "bồ" (nói theo lối nói thông thường hiện nay ở Việt Nam) của lãnh tụ, cơ mà! Sao y lại có thể to gan phạm thượng đến như thế? Hay là y đã thấy rõ tình thế bị "thất sủng" của cô Xuân, tức là cái thái độ không mặn nồng nào đó của ông Hồ đối với cô Xuân, nên mới bạo phổi làm chuyện bậy bạ đến thế? Hay là y đã biết một quyết định nào đó. về cô Xuân, nên y nghĩ rằng "không xài thì phí của trời," trước sau rồi cô cũng chết?

Còn câu hỏi mà ông Hồ đặt ra cho cô Xuân về những người lạ mặt thường đến chỗ các cô phải không, có ýϠnghĩa gì? Có đúng là do bộ trưởng công an mớm cho ông hay không? Việc giết cô Xuân, cô Vàng, cô Nguyệt... là mưu đồ của cá nhân Trần Quốc Hoàn, hay là chủ trương của một tập thể, nếu là của một tập thể thì tập thể nào, và ông Hồ có được biết hay không? Trách nhiệm của ông Hồ, của Bộ chính trị Trung ương đảng, của Bộ công an, của Trần Quốc Hoàn trong việc này như thế nào? Khoảng thời gian từ khi cháu Trung được sinh ra (cuối năm 1956) đến ngày Hoàn tới dở trò hãm hiếp mẹ nó (mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957), cũng như từ ngày đó tới ngày mẹ nó bị giết (11 tháng 2 năm 1957) vì sao lại gần nhau đến thế? Ð辶#7873;u đó có ý nghĩa gì? Vân vân và vân vân... Hy vọng là rồi đây, các nhà thám tử Maigrets tài giỏi nhất, các chuyên gia về tội phạm có thể góp ýϬ góp sức, giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề.

Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử đã có ảnh hưởng rất lớn đối với vận mệnh đất nước và nhân dân Việt Nam trong nhiều thập niên của thế kỷ 20. Dù muốn hay không, không ai có thể phủ nhận điều đó. Nhưng, ảnh hưởng đó là tốt hay xấu, hay vừa tốt vừa xấu, tốt nhiều xấu ít, hay ngược lại? Công trạng của ông thế nào, tội lỗi của ông ra sao, chỉ có công không có tội, hay là chỉ có tội không có công, hay vừa công vừa tội? Ông là vị thánh nhân, là bậc siêu nhân, hay là kẻ phàm phu, hay là tên giả dối, bịp bợm? Ông là biểu tượng của đạo đức với trái tim nhân ái, hay là một kẻ vô luân, vô đạo với lòng dạ bất lương?.. Tất cả những câu hỏi đó đòi hỏi một sự nghiên cứu khách quan, cẩn trọng, sâu sắc, tỉ mỉ, toàn diện, và cuối cùng... phải chờ Lịch Sử cân lượng, phán xét, Lịch Sử được đúc kết từ muôn ngàn sự kiện chân thật. Nhận thức sâu sắc điều đó, người viết bài này không mảy may có tham vọng đánh giá cuộc đời của vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ý muốn nhỏ nhoi đã được nói ngay từ đầu, chỉ là để góp thêm vài "mẩu chuyện," qua đó người đọc có thể thấy thêm được vài nét chân thật trên bức chân dung hoành tráng, đồ sộ của ông mà giới cầm quyền cộng sản Việt Nam từ trước đến nay đã dày công tô vẽ.

Nhưng, vì chân lýϬ lẽ nào chúng ta có quyền chôn vùi, hoặc để cho ai đó được phép chôn vùi sự thật? Trái lại, bằng bất cứ giá nào, phải tìm mọi cách để trả về cho Lịch Sử những sự kiện chân thật, khách quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để mọi điều, mọi người đều được đánh giá đúng đắn và công bằng. Công LýϠđòi hỏi như thế!

(Ngày 10 Tháng Ba 1997)

------------------------------------------------------------------

Nguyễn Minh Cần